Ông dẫn cô gái đi sâu thêm vào trong rừng. Ông chăm chú cúi nhìn những gốc cây, những bờ cỏ. Ông đi trước, cô gái đi sát theo sau. Con đường mòn lót đầy lá thông khô, hai bên thông cao và xanh thẳm. Trên mặt đất, chỉ có dăm ba loài hoa cỏ lạ, ngoài ra là những bụi rậm không tên, và đặc biệt có nhiều cây dương xỉ lá xanh tươi nhưng không hề có một nụ hoa.
Hai người dần dần đi đến một dòng suối nhỏ chắn ngang. Bên kia dòng nước, lác đác trên những ngọn đồi thấp nối tiếp nhau đến tận dãy núi xa là những cây sồi già cỗi, thân sần sùi u nần, lá nhỏ chi chít vàng xanh nhấp nháy dưới cơn nắng chiều.
Bầu trời không một gợn mây. Hai người dừng chân, và cùng đến ngồi bên nhau trên một tảng đá lớn mặt bằng phẳng ngay bên bờ nước.
Thi thích thú tháo giày đưa một bàn chân nghịch nước. Ông nhìn quanh dáo dác rồi lẩm bẩm nói như nói một mình:
“Thế là cũng không có rồi.”
Thi hỏi dè đặt:
“Chú tìm cái gì vậy chú?”
“Thế cháu không muốn đoán nữa sao. Chú tìm những bụi tranh.”
Cô gái lộ vẻ ngạc nhiên. Ông giảng giải:
“Hồi mới đến đất Mỹ, chú ở miền Đông rồi lên miền Bắc. Đó là những tiểu bang lạnh. Chú cũng có ý tìm tranh nhưng biết trước rằng không có. Tranh có lẽ không quen với khí hậu lạnh ấy. Rồi về đây ấm áp, mỗi khi có dịp đi xa thành phố, chú để ý tìm, cũng không thấy. Lần này có Thi, may ra…”
Thi cướp lời:
“Cháu xui lắm, không giúp được gì cả đâu. Nhưng chú tìm cỏ tranh để làm gì?”
“Để bứng đem về trồng một ít tại khu vườn của mình. Thi biết không, ngày xưa chú và mẹ cháu có nhiều kỷ niệm ở Bến Tranh. Quê mẹ cháu có nhiều tranh lắm, mọc ven sông, lạch, trong những vườn hoang. Đâu đâu cũng có. Có lẽ vì vậy vùng đó được gọi là Bến Tranh chăng? Thế rồi chú bỏ mẹ cháu ở lại, chú vào rừng… Chú có nói sơ chuyện này với cháu, phải không?”
“Nghĩa là chú nhớ mẹ cháu cùng một lúc với những đám cỏ tranh? Nay chú lại vào rừng tìm tranh mang về trồng cho đỡ nhớ? Cải lương ghê!”
“Thi nói gì vậy?”
“Cháu nói như thế là… là vì cháu nghĩ đến một tuồng cải lương.” Cô gái có vẻ chống chế. “Tuồng ‘Hoa Rơi Cửa Phật, hay tuồng ‘Chuyện Tình Lan Và Điệp’ gì gì đó”.
“Tuồng đó chú có nghe nói. Nhưng chú quên cốt truyện, kể lại cho chú nghe đi.”
“Cháu cũng không nhớ nhiều. Đại khái hai nhân vật chính Lan và Điệp yêu nhau nhưng không được phép lấy nhau. Họ thất tình, họ tương tư. Lan cắt tóc đi tu cốt để quên Điệp. Nhưng không thể quên. Rồi Lan thì khóc than khi thấy xác bướm, Điệp có nghĩa là con bướm. Điệp thì về nhà trồng cây hoa Lan cho đỡ nhớ. Mấy con bạn của cháu coi tới đoạn đó khóc theo mùi mẫn.”
“Còn Thi?”
“Thi hả? Cháu tức cười.”
Một luồng gió lạnh thổi đến. Cô gái rùng mình.
“Thi lạnh?”
“Dạ. Mùa hè gì mà kỳ quá. Còn mặt trời mà cũng lạnh.”
“Là vì mình ở trong rừng. Cháu lại mặc áo mỏng, không khéo cháu bị cảm đấy. Thôi, mình về!”
“Khoan… đã… chú.” Cô gái đã lấy lại tất cả nét hồn nhiên như cũ, nói trong tiếng cười nghịch ngợm. “Khoan về đã chú! Lâu lắm Thi mới gặp được con suối thiệt, thích quá. Thi ghét những con suối giả tạo ở các vườn hoa lắm. Này, chú có dám để cho cháu… cho cháu… “
“… cho cháu nhảy ùm xuống suối?”
“Vâng.”
“Dám chứ sao không dám,” ông bắt chước lối nói của Thi.
“Thiệt hả? Cháu nhảy xuống ngay đây.”
Nói xong cô gái đứng dậy và nhảy thật. Ông hoảng hốt chồm người dậy và kịp giữ lấy hai vai cô gái.
Hai người đứng trên tảng đá sát vào nhau. Ông nghe hơi thở và mùi da thịt con gái của Thi. Ông quàng tay ôm lấy cô gái, nghe hơi ấm ở người cô gái chuyền qua từ đôi ngực căng, từ thân thể mềm và êm. Ông lần tay xuống một chút và kéo sát người cô gái vào ông. Cô gái ngửa mặt lên, đôi mắt nhắm, hàng mi dài chớp chớp nhè nhẹ rồi nằm yên.
Ông thảng thốt. Đúng là Thủy mấy mươi năm về trước. Cũng khuôn mặt yêu dấu đó, cái cằm hơi nhọn với nốt ruồi đen một bên má, với lúm đồng tiền xuất hiện mơ hồ, và nụ cười dịu dàng, tươi thắm, cũng đôi mắt phượng hơi xếch và dài và thỉnh thoảng gợn sóng, cũng mái tóc dài mượt mà, tha thướt, cũng thân hình mềm mại quấn quýt đó, cái dáng cao cao, hơi gầy. Chỉ có ông già đi nhiều, già trước tuổi, mặt mày phong trần.
Ông buông tay lỏng dần, rồi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi mắt nhắm nghiền. Rồi hai bàn tay ông áp vào hai bên má của Thi nâng lên, ông nhìn thật gần. Bỗng ông thấy những sợi lông mi của Thi rung động và ướt đẫm, và hai dòng nước mắt từ từ chảy ra.
Ông cố nén tiếng thở dài và nắm lấy tay cô gái dẫn cô đi từ từ trở lại con đường mòn cũ hướng đến chiếc xe đậu dưới chân đồi.
Hai người lại im lặng không nói với nhau một lời nào y như hồi nãy lúc hai người kẻ trước người sau men theo con đường nhỏ đi vào rừng.
Xe chạy qua khỏi con đường núi, đường đồi, cuối cùng gặp xa lộ ven đại dương, rẽ phải, thì cơn xúc động trong lòng ông vơi dần. Ông chăm chú lái xe, Thi cũng ngồi yên không nói năng. Bầu không khí giữa hai người dường như lắng đọng. Mặt trời xuống từ từ về phía biển, ánh nắng dịu chiếu nghiêng nghiêng. Cô gái mở ví lấy kính đen ra đeo. Nhân đó ông mở lời, đánh tan sự im lặng nặng nề:
“Cháu bị chói mắt?”
“Thưa chú, không.”
“Thế sao mang kính?”
“Vậy cháu cất cái kính đi là xong.” Thi vừa cho kính vào ví vừa cười nhẹ.
Ông ngẫm nghĩ cô bé này càng ngày càng ngoan ngoãn ra, chả bù trước kia liếng thoắng, lì lợm, rắn mắt. Và lòng ông cũng dịu lại như nắng chiều.
“Thi ơi, muốn nghe chú kể lại chuyện cũ không?”
“Chuyện mới thì hấp dẫn hơn, nhưng biết đâu chuyện cũ cũng… cũng thành mới. Dạ, chú kể cháu nghe.”
“Cũng chuyện liên hệ đến Bến Tranh. Hồi đó ở trong rừng… Thời tiết ở đây khác bên mình lắm. Chú nhớ lúc đó cũng vào mùa hè, cũng vào tháng Sáu, tháng Bảy như bây giờ. Trời nóng hâm hấp, ê ẩm. Anh em nhiều người lột hết áo quần nhảy ào ào xuống suối. Và tiếng ve! Ve rừng kêu ra rả suốt ngày đêm, đinh tai, nhức óc, khiến người ta bồn chồn khó tả. May mà thỉnh thoảng cũng có tiếng chim kêu, tiếng thú rừng như khỉ, sóc, tiếng suối chảy. Nhờ thế mình cảm thấy thư giãn phần nào. Và cũng may là cây rừng dày dặt che bớt cái nắng dữ dội. Chú còn nhớ như in, cả một khu rừng rực rỡ đầy màu sắc, xanh, vàng, đỏ, tím… Màu xanh là chính. Và có nhiều loại cây khác nhau mà chú không biết hết tên. Mà không phải chỉ màu sắc mà thôi, còn có nhiều mùi hương nữa, mùi hoa dại, mùi trái chín, mùi nhựa cây, mùi lá khô…”
Thi tỏ vẻ quan tâm. Cô ngắt lời:
“Thế thì cũng phải có ong, có bướm nữa chứ. Ở trong rừng mà được như vậy thì vui quá chú ơi! Làm cháu nhớ một bài hát, một bài hát xưa lắm.”
“Thi hát cho chú nghe đi.”
“Đời vui như ong bay – Ngọt lên cây trái – Góp chung mật sống lâu dài – Nhịp bàn tay nhân gian ơi… Nhịp bàn chân nhân gian ơi…”
“Ủa, Sao cháu ngừng hát. Đang hay mà!”
“Thôi chú. Lâu ngày không hát bài này bây giờ hát lạc cả giọng. Nhưng về nhà cháu sẽ tập lại bài này để nhớ chuyến đi rất đặc biệt hôm nay nhe chú.”
“Cám ơn Thi. Nhạc của ai thế?”
“Phạm Duy.”
Ông lẩm bẩm:
“Hoạt nói đúng, giọng của Thi tốt lắm. Cháu thích nhạc Phạm Duy?”
“Dạ. Và một số người khác nữa, như Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng.”
“Thế Cung Tiến?”
“Cháu không biết Cung Tiến.”
“Hôm nào vào college phải ghi cho Thi thêm lớp học hát.”
Thi mừng rỡ:
“Thế thì tuyệt quá. Gọi là lớp thanh nhạc. Nhưng còn chuyện này nữa, sao chú bỏ lửng?”
Ông ngẫm nghĩ:
“Chuyện gì, chú không nhớ.”
“Chú hỏi nhạc ai, cháu nói Phạm Duy. Rồi chú khen cháu hát hay, và không thèm nói gì thêm về ông nhạc sĩ đó nữa. Như thế có nghĩa rằng chú không, không, không cho là nhạc Phạm Duy hay? Đúng vậy không?”
Ông bỗng muốn pha trò:
“Cháu của chú rúc rắc quá.”
“Chú nói cái gì vậy?”
“Chú bắt chước con nít gốc Việt bên này nói tiếng Việt. Tiếng Anh thì chẳng khác gì con nít Mỹ, nhưng nói tiếng Việt thì lơ lớ, bập bẹ, ngọng nghịu, khó khăn, nghe thật dễ thương. Chẳng hạn được hỏi xong chưa, trả lời xăm rồi, tò mò thì nói thò mò, rắc rối thì nói rúc rắc. Thi rúc rắc lắm đó.”
Cả hai cùng cười vui vẻ.
“Chú trở lại chuyện cây cỏ tranh nhé. Trên cành cây có ong, bướm, sóc, khỉ, chim chóc, dưới đất thì là kiến, rất nhiều, những đàn kiến bò ngoằn ngoèo khắp nơi. Nhưng trong khu rừng ấy nhiều nhất vẫn là tranh. Nhiều chỗ tranh mọc cao quá đầu người, bạn bè của chú mấy mươi người núp trong những đám tranh đố ai tìm ra. Khổ nổi tranh dễ bắt lửa. Bến Tranh Rừng.”
Cô gái ngạc nhiên:
“Bến Tranh Rừng? Tên nghe lạ quá, thuộc tỉnh nào?”
“Vùng Tam Biên. Thật ra cái tên đó do chú bịa ra.”
“Vùng Tam Biên? Cháu biết, là vùng ba biên giới Việt , Miên, Lào, chứ gì. Tên đó chú đặt ra?”
“Không phải. Chú muốn nói chú đặt ra cái tên Bến Tranh Rừng. Đó là câu chuyện riêng của chú, nhưng có lẽ chú cũng nên nói đại khái cho cháu nghe. Là như thế này. Trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, chú đã bỏ mẹ cháu, chú đi vào rừng. Sau đó chú như người mất hồn. Ở trong rừng với anh em, nhiều lần chú muốn trốn về mà không đành. Nhưng chú nhớ quá. Nhớ mẹ cháu, nhớ Bến Tranh. Một hôm chú tình cờ gặp một nơi thật kín đáo ở trong rừng, có dòng suối, có bến đá, có tranh mọc nhiều. Thế là chú không cho ai biết nơi đó, để có dịp chú lại tới đó một mình. Chú gọi đó là Bến Tranh Rừng.”
“A, cháu hiểu rồi. Chú yêu mẹ cháu lắm!”
“…”
“Thế chuyến về thăm năm ngoái chú có trở lại khu rừng đó không?”
“Còn biết nó nằm ở đâu mà trở lại. Chiến tranh, đạn bom đã thiêu hủy hết, làm sao tìm ra khu rừng ấy. Ngay cả Bến Tranh, chú muốn nói quận Bến Tranh tỉnh Định Tường, chú cũng thấy khác hẳn.”
“Chú về Bến Tranh lúc nào?”
“Về Việt Nam, trước khi gặp cháu, chú có đi về đó. Không còn gì nữa. Ngôi nhà ngày xưa đã bị nhà nước tịch thu sửa lại thành một Hợp Tác Xã gì đó như cháu đã biết. Không gặp ai quen. Cảnh cũng thay đổi nhiều. May mà cuối cùng chú tìm được cháu ở Sài Gòn. Thi có biết rằng lúc mới gặp cháu lần đầu, chú ngán Thi lắm không?”
“Ngán là sao?”
“Là ngán chứ còn sao nữa.”
“Tức là chán?”
“Không phải.”
“Phải cũng được. Cháu cũng OK như thường! Còn cháu hồi đó cháu ghét chú… Ghét cay ghét đắng!”
“Thế bây giờ?”
“Cũng ghét.”
Nói xong cô gái lại ngồi im, có vẻ tư lự. Mặt trời từ từ chìm xuống dưới mặt biển. Ánh nắng chiều còn sót lại trên mấy ngọn cây chạy song song một bên con đường dài. Vài ba con chim hải âu bay là là trên mặt nước. Trên bãi cát, người tắm biển vẫn còn đông, nằm, ngồi, la liệt. Ven bờ dăm ba người đi trên ván lướt nhấp nhô trên lớp sóng bạc đầu. Ông hạ cửa kính xuống để đón gió biển thổi vào.
Như không thể kéo dài sự im lặng, dù chỉ là im lặng ngắn ngủi, Thi cười khúc khích:
“Chú ơi.”
“Vâng, chú nghe đây.”
“Chú đang nghe cháu hả? Nhưng cháu không có chuyện gì để nói với chú cả. Cháu chỉ thỉnh thoảng thích gọi chú ơi thôi.”
Ông nhìn Thi âu yếm:
“Thi ơi.”
“A, có chuyện rồi. Mình cũng đi bộ trên bãi biển như mọi hôm nhe chú. Trời chưa tối mà.”
Ông gật đầu, cho xe chạy chậm lại, rồi đậu xe bên lề đường. Bãi biển vẫn chưa vắng người. Hai người vừa đi trên bãi cát vừa nói chuyện.
“Chú tính thế này. Lần sau mình phải bỏ nhiều thì giờ hơn. Đi bộ một chốc rồi kiếm một nơi trải khăn ra ngồi nghỉ, ngắm trời, ngắm nước, ngắm người.”
“Đồng ý. Và cháu sẽ chuẩn bị vài món ăn. Đem thêm nước nữa, nước ngọt cho cháu, bia cho chú nhé!”
“Cháu làm chú chợt nhớ. Qua đây sao không thấy cháu uống bia? Chú nhớ hồi đó…”
Thi ngắt lời:
“Người ta mỗi ngày mỗi khác chứ. Chú không thấy cháu thay đổi nhiều sao? Mà này này, chú đi phía trong, cho cháu đi phía ngoài. Cháu thích đi trên cát còn ướt cho mát chân. Mà đi cũng nhẹ nữa.”
Đi một quãng ngắn, Thi đã để ướt cả giày và hai ống quần jeans. Không như mọi khi, mỗi lần sóng tràn vào gần liếm đến bàn chân, cô gái chạy giạt ra tránh, nép vào ông, có khi ôm chầm lấy ông. Lần này cô đi tỉnh bơ mặc cho những đợt sóng biển tràn đến và ngập đến nửa ống quần. Nước bắn lên cả chiếc áo bó sát vào thân hình Thi.
Ông im lặng đi cạnh, không tỏ ý kiến gì trước sự đùa nghịch khác thường của cô gái. Khi trở lại xe, cô gái hỏi:
“Chú! Độ này cháu để ý thấy chú có chuyện gì không vui, phải không chú? Và chú ít nói quá.”
Ông đáp:
“Thi làm chú ngạc nhiên đó. Ít nói đâu có nghĩa là không vui.”
Thi bỏ lớp ESL gần hai tuần rồi. Không phải vì cô sắp theo học tại Đại Học Cộng Đồng. Học kỳ mùa thu của Community College mãi hơn một tháng nữa mới bắt đầu.
Một hôm, vừa ra khỏi lớp học buổi chiều, Thi đã thấy ngay ông Hoạt đang đứng chờ ở cổng trường. Dù trong lần đi Grand Canyon, có chuyện xẩy ra không được vui giữa ông Hoạt và Thi, nhưng vừa thấy ông Hoạt, cô rất ngạc nhiên, và cũng hết sức mừng rỡ.
Cô chạy vội tới bắt tay ông Hoạt và hỏi rối rít:
“Chú Hoạt ơi, chú khỏe không. Có lẽ chú hơi xuống cân chút xíu đó, trông chú càng bảnh trai hơn. Chú về đây bằng gì?”
Ông Hoạt mặt mày rạng rỡ, vui vẻ trả lời:
“Cô hỏi tôi một lô câu hỏi cùng một lúc, tôi biết trả lời câu nào trước, câu nào sau. Mà trước hết, riêng cô thì sao? Để tôi xem nào. Cô Thi ơi, Thi mới đó mà đã thay đổi nhiều lắm, nghĩa là càng ngày càng đẹp thêm ra, càng sang trọng thêm ra. Tui nói thiệt chớ không phải nịnh đâu.”
Thi cười thật tươi:
“Chú nịnh giỏi lắm chứ đâu phải không biết nịnh. Đã muốn không tin rồi cũng phải tin là chú khen đúng, đúng tuyệt đối. Nhưng không đúng lắm.”
“Cô nói cái gì lạ vậy? Đã đúng tuyệt đối mà lại không đúng lắm. Muốn móc họng tôi hả? Người đâu đã đẹp mà còn biết mình đẹp. Tự tin quá. Bây giờ tôi trả lời cô từng điểm một nhé: thứ nhứt, tôi độ này khỏe; thứ nhì, không xuống cân như cô tưởng, cô không thấy cái bụng tôi hơi bự ra sao; thứ ba cô hỏi gì tôi quên phứt rồi.”
Thi càng cười to:
“Thứ ba là chú bảnh ra này. Thứ tư là chú, cháu cũng quên mất. À chú về đây bằng cách gì?”
“Bảnh ra là câu xác nhận chứ không phải câu hỏi, xin miễn trả lời. Còn xuống đây bằng gì hả, tôi lái xe lấy. Không xa lắm, lái xe lấy tiện hơn.”
Thi đưa tay vẫy vẫy mấy người bạn và nói:
“Mấy bồ đi về trước đi! Tôi đi với chú tôi.”
Quay qua ông Hoạt, Thi hỏi tiếp:
“Chú đi mất bao lâu?”
“Gần bảy tiếng, kể cả giờ cho xe nghỉ máy.”
“Xe nghỉ, bộ người không nghỉ sao?”
“Người đâu biết mệt mà phải nghỉ!” ông Hoạt trả lời hóm hỉnh.
Thi nhanh nhẩu:
“Sao chú không đi máy bay cho mau, cho khỏe? Sợ khủng bố à?”
“Người ta sợ tôi thì có. Cái mặt của tôi trông giống Bin Laden lắm, phải không cô?”
Thi mỉm cười:
“Để cháu ngắm cái mặt của chú xem thử. Chú giống ông kia hơn.”
“Ông nào?”
“Ông Tổng Thống Một Rắc chứ ông nào nữa.”
Ông Hoạt ngẩn người:
“Một cái gì?”
“Chú cứ về hỏi chú Khê là biết ngay. Mà Chú Khê nhờ chú đến đây đón cháu về nhà?”
Ông Hoạt bỡ ngỡ:
“Thế thường ngày chú Khê đến đón cô về? Chú Khê không bận đi làm hay sao?”
“Không phải vậy. Buổi sáng trên đường đi làm chú Khê đưa cháu đi học, buổi chiều cháu đón xe buýt về. Chú chưa gặp chú Khê hả?”
“Chưa. Sẽ thăm Khê sau. Tôi về đây cốt để gặp cô trước cái đã… Xong tôi sẽ đưa cô về nhà.”
Thi ngạc nhiên bước lui một bước:
“Không sao. Cháu đi xe buýt cũng được. Đi bộ mấy bước đến bến xe buýt ngay.”
“Đừng bày chuyện nữa. Có sẵn xe đây thì cứ đi xe, tôi đưa cô về nhà ngay. Tôi không xứng đáng làm tài xế cho cô sao? Lên xe nói chuyện tiện hơn.”
Ông Hoạt đi ngay tới chiếc xe hơi màu đỏ đang đậu bên lề đường, Thi đi theo phân vân. Ông lên xe trước, mở máy, rồi nghiêng người vói tay mở cửa cho cô gái lên. Thi lại phân vân một giây, rồi bước lên. Ông rồ máy mạnh, xe chạy nhanh.
“Chú biết đường về nhà?”
“Chuyện nhỏ mà. Tôi đã về vùng này nhiều lần, thuộc lòng đường sá.”
Rồi, một cách rất tự nhiên, ông một tay cầm tay lái, tay kia nắm lấy bàn tay của cô gái. Thi giật mình, nói to:
“Ô hay!”, và cố rút tay ra.
Ông không buông, nhân đó, bàn tay của ông đang nắm tay cô gái theo đà co kéo chạm lên trên đùi cô, và ông nhấn mạnh tay xuống. Thi nhìn ông giận dữ, muốn la lên. Vẻ mặt ông Hoạt lúc đó trông thật nghiêm nghị, không lộ vẻ cợt nhã chút nào. Ông bình tĩnh nói:
“Thi! Đừng sợ. Để anh nói cho em nghe nào. Anh về đây hai hôm rồi. Hôm qua anh cũng đứng chờ em tại cổng trường, tưởng em thấy anh mà làm lơ. Định chạy theo níu em lại thì thấy mấy đứa bạn gái và mấy thằng mũi lõ đến bao quanh lấy em nói xì lô xì la ỏm tỏi. Anh đành phải quay về khách sạn. Hôm nay anh nhất định đón cho được em.”
Chỉ trong một thoáng, cô nhớ lại hồi còn ở đảo Galang. Một hôm cô thư ký tại văn phòng Cao Ủy người Indonesia gọi cô lên trình diện ông giám đốc có chuyện gấp. Ông ấy đã lớn tuổi, trông nghiêm nghị, đạo mạo hơn ông Hoạt nhiều. Ông ngồi sau cái bàn giấy rộng thênh thang, nói một câu tiếng Anh gì đó và làm dấu bảo Thi ngồi xuống. Cô ngồi rụt rè trên một trong hai chiếc ghế đặt trước bàn, một khuỷu tay đặt trên mép bàn. Khi cô thư ký vừa bước ra khỏi cửa để đi gọi người thông dịch, trong phòng chỉ còn lại Thi và ông ta, ông đã hấp tấp chồm người qua cái bàn rộng, khiến cho cái thắt lưng vướng vào một tay nắm của cái ngăn kéo. Bị dùng dằng nhưng ông cũng cố vói tay vồ nhanh lấy bàn tay của Thi, và nắm chặt.
Cô hơi hoảng hồn nhưng không lấy thế làm bực mình. Cô chỉ ngạc nhiên và buồn cười, thầm nghĩ đàn ông thấy vậy mà không phải vậy. Cái mặt thì trịnh trọng mà cái miệng và hai bàn tay luôn luôn ngứa ngáy. Y như cái ông Hoạt này. Nghĩ đến đó, cô bật cười thành tiếng.
Ông Hoạt xoay nhanh nhìn Thi, mắt lóe lên những tia sáng lạ lùng, vui sướng, hài lòng, tự tin, trong khi bàn tay ông lại siết bàn tay của cô gái chặt hơn, và đồng thời dí mạnh xuống đùi của cô. Cảm thấy rờn rợn trong người, cô gái ấp úng:
“Chú, chú, chú à!”
“Thi muốn nói gì? Cứ nói đi!”
“Nặng quá!”
“Cái gì nặng vậy?”
“Và đau nữa.”
“Mà cái gì vậy?”
“Cái tay của chú đó. Chú biết không, chú cầm tay cháu chặt quá, và còn đè nặng xuống nữa. Cất tay đi!”
Cô ngạc nhiên về giọng nói của mình, nó có vẻ nửa phản đối, nửa bằng lòng. Sao mình thay đổi nhanh thế. Mới phút trước mình giận dữ thật tình, phút này đã thấy dịu dịu trong lòng. Mình lại bỗng dưng dễ dãi giống như những ngày nào còn ở trên đảo, hay ở Sài Gòn. Người ta nói cái đó là ngựa quen đường cũ? Nghĩ như thế, cô cảm thấy tự giận mình hơn là giận ông Hoạt.
“Thi, cho anh xưng là anh nhé. Anh nhớ khi đi chơi ở Grand Canyon, em cũng đã xưng em với anh. Cũng vì vậy mà anh tìm về đây.”
“Chú nói sai rồi. Hồi đó đi chơi xa ở một nơi thật là,…, thật là to lớn, hung bạo, ghê gớm — cháu không tìm được cách nói gì cho đúng với ý nghĩ của cháu lúc đó — nên cháu nói như thế để tự trấn an, để bạo dạn hơn, để bớt hoảng sợ. Cũng có thể do lỡ miệng. Không ngờ chú hiểu lầm… Bây giờ về đây phải khác chứ. Nhưng mà chú buông tay ra đi. Nặng quá!”
Cô gái cảm thấy áp lực đè lên đùi cô giảm bớt dần, một cách lưỡng lự. Cuối cùng ông nâng bàn tay cô gái lên, lần dò vo vo từng ngón một. Cô tự bảo thử xem cái ông này còn muốn làm cái trò gì nữa. Có dám không? Đuà hay thật? Rồi mình sẽ tính sau cũng không muộn.
Ông Hoạt bỗng vui hẳn lên:
“Thi đừng gọi anh là chú nữa. Nghe kỳ cục lắm. Anh có món quà cho em, để trong cái này, trong cái glove box trước mặt em đó. Em lấy ra xem có vừa ý không.”
Thi tò mò muốn xem ngay, nhưng đỏng đảnh:
“Vội gì. Về tới nhà khui ra cho chú Khê xem ké luôn.”
Ông im lặng lái xe thêm một đoạn, tạt vào một trạm xăng, đổ xăng, xong xuôi lên xe, lấy món quà ra trao cho Thi, rồi lái rẽ ra xa lộ.
Thi hoảng hốt:
“Chú đi đâu vậy?”
“Anh chứ. Anh đưa em đi ăn.”
“Không được đâu. Cháu phải về đúng giờ, chú Khê chờ cơm.”
Ông Hoạt hầu như không nghe thấy gì, vẻ mặt rất cương quyết, thản nhiên nhấn thêm ga. Cô cố lấy lại bình tĩnh, và nói như van lơn:
“Chiều nay về nhà cháu sẽ nấu món mì Quảng đặc biệt cho chú Khê như đã tính. Hay là ta cùng về nhà ăn uống, chuyện trò cho vui?”
Ông Hoạt tặc lưỡi:
“Cũng bất tiện. Tự nhiên khi không anh từ… từ trên trời rớt xuống rồi đưa em về nhà. Thằng Khê nó cười cho thúi ruột.”
Thi giọng hơi run nhưng cũng cố pha trò:
“Chú lái xe về đây chứ có đi máy bay đâu mà bảo từ trên trời rớt xuống. Thôi, chú cháu mình cứ về nhà, cháu có cách nói với chú Khê. Nghe chú!”
“Anh cũng có cách nói chuyện với thằng Khê. Mà người ta tặng quà thì mình phải mở gói quà ra xem ngay chứ. Cái cách của người Mỹ nó thế đó.”
Thi đã lấy lại bình tĩnh, cười cười, tay mân mê gói quà, nói:
“Gói quà gì mà nhỏ chút xíu!”
Mở gói quà ra, cô sửng sốt. Đó là một cái đồng hồ hiệu Rolex có đính hột xoàn, và một xâu chuỗi hạt trai đeo cổ đánh thành nhiều vòng. Cô chưa bao giờ sờ đến những món quý giá như thế. Chiếc xe vẫn chạy nhanh trên xa lộ.
Cô nói, giọng hồi hộp:
“Chú cho cháu những thứ đắt tiền này, cháu sợ chú Khê…”
“Ủa? Sợ chú Khê cái chuyện gì vậy?”
Thi ấp úng:
“Đi lâu quá sợ chú Khê ở nhà trông.”
“Chuyện nhỏ!” Ông Hoạt nói tía lia một hơi. “Em lấy cái cell phone này gọi về báo cho Khê nó biết là em, em làm sao nhỉ… chẳng hạn em vừa mới được con bạn cùng lớp mời đi ăn sinh nhật của nó, của bạn trai nó, của má nó, hay ăn tiệc cưới của bà ngoại nó.” Ông cười hô hố. “Ồ, có biết bao nhiêu chuyện lộn xộn trên cái đời này đem ra dùng để nói láo. 10 giờ hay 11 giờ tối gì đó sẽ về. Em nói con bạn đưa về.”
Trong gần hai tuần lễ, ngày nào Thi cũng đi chơi với ông Hoạt, trừ thứ Bảy và Chủ Nhật.
Cô tự trách mình mỗi khi nghĩ đến chú Khê. Cô tự hỏi lòng, thế mình có phản bội hay không? Câu trả lời là có dù cô không rõ vì sao, dù không có một lời hứa hẹn nào giữa chú Khê và cô. Nhưng tại sao ngã theo cái ông Hoạt này dễ dàng đến thế? Yêu? Chắc chắn không phải. Vậy tại sao? Nó có liên hệ gì đến món quà đắt tiền không? Cô không muốn nghĩ tiếp. Sau mỗi lần gặp gỡ, cô tự hứa sẽ nhất định không gặp nữa, nhưng cô bỏ quên lời hứa dễ dàng. Cái nếp sống của những năm tháng ở đảo, ở Sài Gòn vẫn còn lẫn quất trong cuộc đời của mình bây giờ hay sao, không thể nào tẩy xóa được hay sao, cô bàng hoàng.
Mỗi buổi sáng ông Khê vẫn đưa cô đến cổng trường như thường lệ. Chờ xe ông Khê vừa đi khuất vào ngã rẽ, cô vội đi nhanh đến chỗ hẹn với ông Hoạt, một trạm xăng cách đó vài trăm thước. Ông Hoạt rất đúng hẹn, luôn luôn chờ sẵn. Rồi cùng đi đến khách sạn của ông Hoạt, hoặc ông đưa Thi đi chơi nhiều nơi. Buổi chiều, ông Hoạt lại đưa Thi đến trạm xe buýt gần nhà. Thi lại lên xe buýt, chỉ đi một trạm là xuống xe, ung dung đi bộ thêm một quãng ngắn rồi vào nhà, chuẩn bị bữa cơm chiều chờ ông Khê.
Đã nhiều lần ông Hoạt thúc giục cô gái:
“Tại sao phải lén lút, khổ sở như thế này. Anh biết em hoàn toàn tự do mà. Cứ để anh nói thẳng với Khê một tiếng là xong”.
Nhưng Thi cứ ngại ngùng, băn khoăn. Cô liên tưởng đến quãng thời gian ở đảo, ở Sài Gòn, với những cuộc tình bừa bãi. Cô nhớ những người vì cô mà chém giết nhau trong khi cô dửng dưng chứng kiến. Nay khác hẳn. Lo âu, ăn năn, và buồn.
Sau bữa ăn trưa, ông Hoạt bàn bạc với Thi:
“Ngày mai anh đi. Chiều nay anh đến Khê ‘thú tội’ nhé. Anh biết tính của Khê lắm. Nó quý anh, quý em. Nó không làm khó dễ em đâu.”
“Có gì đâu mà khó hay dễ, nhưng tự nhiên em thấy có cái gì không ổn. Thôi, đừng nhắc đến chuyện đó nữa.”
Thật ra cô không chỉ ngại ngùng khi nghĩ đến việc phải nói năng làm sao với chú Khê, mà cô cũng cảm thấy không còn thích thú khi tiếp xúc với ông Hoạt. Vậy mà vẫn không chịu buông bỏ. Hay lại là vì món quà đắt tiền? Hay là ngựa quen đường cũ? Cô trở lại ý nghĩ là mình phải nhất quyết chấm dứt cuộc hẹn hò vụng trộm này. Mà đã nhất quyết thì không được nuốt lời, cô nghiến răng, gầm gừ trong cổ họng.
“Anh sẽ xa em không lâu đâu. Ngày nghỉ phép của anh còn nhiều. Vài ba tháng nữa anh xuống.”
“Thôi anh. Như thế là quá lắm rồi. Đừng gặp nhau nữa.”
“A cái cô này! Lại lên cơn khùng hả!”
Tính ra, cô sống với chú Khê mới hơn một năm, và một sợi dây vô hình đã ràng buộc hai người với nhau. Nhiều lần cô tự hỏi đó có phải là tình yêu hay không. Cô không thể trả lời câu hỏi đó vì cô không thể phân biệt thứ tình nào là tình yêu, tình nào là tình dục, tình nào là tình bạn, tình nào là lòng thương, lòng tử tế. Tuổi thơ tối tăm và những năm tháng sống buông thả đã làm cô chai sạn. Đối với cô, cái mà người ta gọi là tình yêu có lẽ chỉ là sản phẩm của tưởng tượng, hoặc một món đồ chơi xa xỉ của những người lắm điều, lắm chuyện.
Cô nhớ có lần ông Hoạt nói một cách chân thành:
“Em biết không, anh đã có một đời vợ, một đứa con. Ly dị xong, anh cảm thấy như thoát nợ. Anh hoàn toàn tự do. Anh sung sướng được hưởng cái tự do đó, và thề sẽ không bao giờ lấy vợ lần thứ hai. Cho đến khi anh gặp em.”
Những câu nói ấy cô đã nghe nhiều lần từ nhiều người, nhàm tai. Có khi người ta nói chưa hết câu, làm bộ ngập ngừng, cô liền nói tiếp giùm cho đoạn cuối. Nhưng cô có linh cảm rằng ông Hoạt nói thật. Tuy vậy cô cũng nhõng nhẽo:
“Em biết hết. Anh nói thế cốt để em nghe cho vui.”
“Không. Thế là em không biết xét đoán con người. Hay là em muốn anh thề?”
“Vâng, anh thề đi!”
“Thấy em là anh thề rằng phải lấy cho được em.”
“Anh thề cái kiểu khỏi lỗ vốn. Không được. Thề lại!”
“OK. Nếu không lấy được em, anh thề không bao giờ lấy ai nữa.”
Thi làm bộ sốt ruột:
“Anh lại không chịu thề độc.”
Ông Hoạt nóng nảy:
“Thế là em không hiểu gì về anh cả. Thề mà không giữ lời thì cũng như không. Đàn ông không cần thề, hành động thôi. Có chuyện này anh nói thiệt, anh không biết tại sao anh yêu em hết sức.”
“Em biết tại sao rồi. Chẳng qua là vì anh đi lâu ngày, gặp toàn là đàn bà tóc vàng, tóc xanh, tóc tím. Nay thấy em từ Việt Nam mới qua anh bỗng cảm thấy nhớ mái tóc đen. Anh yêu tóc thôi chứ anh có lý gì đến em.”
“Sai bét! Em tưởng anh chưa về lại Việt Nam à? Anh đã để dành suốt một tháng nghỉ phép về thăm Việt Nam. Anh về trước chú Khê của em đến ba bốn năm chứ không ít đâu. Mua vé khứ hồi xong xuôi, ở bên đó mới hơn mười ngày, anh bỏ về lại bên này.”
“Sao vậy anh?”
“Vì anh chán quá! Chưa biết miền Trung, miền Bắc, anh bao xe ra ngoài đó coi. Chả thấy nơi nào ra hồn. Dơ dáy, bẩn thỉu, bụi bặm, mất vệ sinh. Hà Nội phố cũ thì xập xệ, lộn xộn, phố mới thì lùi xùi như những thành phố hạng hai, hạng ba bên này. Hồ Hoàn Kiếm nghe như trong chuyện kiếm hiệp, anh cứ tưởng ghê lắm, té ra… không thấy rùa thần nổi lên trả gươm trả kiếm đâu cả, chỉ thấy rác nổi lềnh bềnh. Và giống như cái ao thả vịt trời trong một cái park nho nhỏ nào đó ở khắp nơi bên này. Lẽ dĩ nhiên dơ dáy hơn nhiều. Huế càng tệ hơn, nhỏ xíu, nghèo mạt rệp. Sau này anh đưa em đi xem Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh để em có dịp so sánh với Huế! Dân An Nam ta xạo lắm. Ai cũng xạo tuốt.”
Thi chau mày cố giấu sự khó chịu, hỏi gặn thêm:
“Thế miền Nam, Sài Gòn? Có lẽ là vì anh sinh trưởng ở miền Nam, nên anh chỉ biết yêu quê hương miền Nam.”
“Anh đâu có óc kỳ thị. Yêu ghét là một chuyện, nhưng khách quan là chuyện khác. Ngoài Trung, ngoài Bắc, người ta quảng cáo thổi phồng quá. Đến khi anh chạm mặt anh thất vọng.”
Thi trở lại câu hỏi:
“Thế miền Nam? Anh cho biết ý kiến luôn.”
“Cũng táp nham, hổn loạn, lộn xộn, chẳng ra cái thể thống gì cả. Đi xa, mở mắt, thấy mình quê một cục.”
“Tức là anh chẳng có tình cảm gì đối với quê hương cả.”
Ông Hoạt có vẻ suy nghĩ:
“Không phải thế. Anh đâu nói rằng anh không yêu quê hương. Anh chỉ muốn nói quê hương mình chả ra cái mẹ gì cả. Thì đừng có lớn lối.”
Cái tính tinh nghịch lại đến với Thi. Cô nhí nhảnh hát:
“Quê hương là chùm khế ngọt…”
Ông Hoạt như bị chạm nọc, hối hả chận lại, rồi cướp lời, nói một cách bực bội:
“Thôi, thôi, thôi, tôi xin cô. Cô khỏi phải đóng vai cán bộ tuyên truyền rẻ tiền. Hồi tôi về Việt Nam cũng đã được cho nghe bài hát đó nhiều lần. Hát cho Việt Kiều nghe đó mà, dạy bài học đầu tiên tiền đâu về lòng yêu nước, yêu tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa đó mà. Không hiểu gì về bài hát ấy là lớn lên không thành người đó mà. Cái anh chàng ca sĩ nhơn nhơn cái mặt ngu si như mặt mo mà cứ muốn làm cha thiên hạ. Đầu óc gì mà thiển cận và kém cỏi đến thế! Quê hương gì mà chỉ toàn là chùm khế ngọt, rồi con đò, con bò, con trâu, rồi con heo, rồi con diều, con tiều! Rồi cầu tre, cầu khỉ!”
Thi bực mình ngắt lời:
“Anh nói loạn cào cào. Bài hát ấy đâu phải thế. Không nhớ rõ thì đừng nói.”
“Anh đâu phải là ca sĩ như em. Nhớ loáng thoáng một vài câu là đủ xài rồi. Nhưng thiệt ra đó không phải là quê hương mà là nhà quê, là làng, là thôn, là buông, là sóc, là quê hương của người nhà quê. Thế anh sống ở Sài Gòn từ khi mới đẻ cho tới lớn lên tức là anh không có quê hương? Thật không thể ngẩng đầu lên ngó ai nổi là vì cái giọng điệu ngu xuẩn, chậm tiến ấy!”
“Anh, anh, sao anh khó tính quá thế!”
“Không phải anh khó tính, nhưng anh ghét những cái đầu xơ cứng, thiển cận, bịp bợm, gian dối, độc ác. Rồi bắt người khác phải theo mình. Thử nhìn quê hương của người ta kia kìa — nào Vạn Lý Trường Thành, Bắc Kinh, Thượng Hải, nào Tokyo, núi Phú Sĩ, nào điện Pantheon, tháp Eiffel, Paris, nào Grand Canyon, New York, cầu Golden Gate, nào Kim Tự Tháp, đập Assuan. Kể mãi cũng không hết. Hay ngay cả tại nước láng giềng cũng có Angkor Wat nổi danh khắp thế giới. Quê hương người ta biết bảo tồn những công trình lớn lao, biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau, lại còn trải lòng ra cho những người thất thế từ những nước khác tới nương tựa, tỵ nạn. Còn quê hương mình thì ai cũng chỉ muốn ăn trọn gói, tìm cách hại nhau, lột nhau, cướp nhau, đểu cáng với nhau, từ trên xuống dưới. Miệng nói vì tương lai tổ quốc, vì con cái mai sau, mà thực tế thì tìm đủ mọi cách vơ vét, rúc rỉa cho hết máu, hết tủy của cái đất nước đã xơ xác, tan hoang. Tụi lớn bây giờ đã bị bóc lột tận mạng, mà tụi nhỏ về sau càng không còn lấy gì để sống. Chúng nó sẽ nhờm tởm cái thế hệ cha ông này, chắc chắn là vậy. Đồng bào với đồng chí, nghe mệt cái lỗ tai quá chừng.”
“Anh! Lòng anh còn đầy hận thù đến thế sao?”
“Em nói đúng. Anh căm thù khi anh bỏ nước chạy bán sống bán chết. Rồi anh mong có ngày trở về trả thù. Rồi với thời gian, nguội điện. Nhưng anh chán lắm! Anh đã lỡ về một chuyến, nhất định sẽ không bao giờ về nữa.”
Thi thở dài:
“Thế thì chắc chắn anh không yêu em đâu.”
“Tại sao em có ý nghĩ đó?”
“Có thể ngay bây giờ anh yêu em, nhưng anh sẽ chóng chán.”
“Không, không bao giờ.”
Thi làm bộ rầu rĩ:
“Em biết mà! Anh sẽ chán em vì anh và em khác nhau quá.”
Ông Hoạt đáp một cách đắn đo:
“Em lại hiểu lầm rồi. Anh yêu em không phải chỉ vì em trẻ, em đẹp…”
Cô gái ngắt lời, cười mỉm:
“Thôi, anh đừng nịnh em nữa. Chiếm đoạt em vài tuần lễ rồi thôi chứ gì. Cái kiểu Việt kiều về Việt Nam kiếm những cô thật trẻ, thật đẹp lấy làm vợ một vài tháng rồi bỏ để đi kiếm vợ khác mới hơn, trẻ hơn, đẹp hơn! Có nhiều ông Việt kiều sáu bảy mươi tuổi về cưới mấy cô gái trẻ măng, trẻ hơn em nữa đó. Có tiền mua tiên cũng được huống là mua người. Mà anh thì chắc là không thiếu tiền.”
“Rồi sao nữa?”
“Thì anh lại bỏ em về Việt Nam tìm những người mẫu thật đẹp mà lấy, hoặc là hoa hậu người mẫu càng tốt, chứ sao nữa.”
“Anh nói chưa hết em đã ngắt lời. Anh đã nói không phải chỉ vì trẻ, đẹp mà thôi, còn vì lý do khác nữa. Em không chịu nghe cho rõ.”
Thi vẫn cái giọng đùa cợt:
“Vâng, bây giờ em đang nghe kỹ đây. Anh nói đi. Thử nghĩ cho ra một lý do nào thật thuyết phục đi.”
Ông nóng nảy:
“Tôi thì thật tình mà cô thì cứ giỡn giỡn, làm sao nói chuyện đàng hoàng với nhau được.”
Thi ngọt ngào:
“Thôi mà! Em xin lỗi anh. Em giỡn chơi một chút xíu cho vui mà anh đã giận. Bây giờ em cũng xin nói đàng hoàng nhé. Em và anh khác nhau lắm, liệu anh có bỏ em nửa chừng nửa đoạn hay không? Em hỏi thiệt đó.”
Ông Hoạt vẫn còn bực tức:
“Em muốn coi anh như cục bột, muốn nắn thế nào thì nắn. Giỡn rồi thiệt. Anh làm sao biết được lúc nào em giỡn, lúc nào em không giỡn?”
Cô gái quay người nũng nịu chìa má cho ông hôn và nói:
“Anh giận lâu quá à! Bây giờ anh hãy nghe em nói đây này. Hình như anh và em khác nhau lắm, có phải không anh?”
“Lẽ dĩ nhiên là khác, em khỏi cần phải nhắc điều đó. Có vậy mấy tuần nay mình mới ráp vào nhau được chứ!”
Thi nghiêm mặt:
“Em không nói chuyện với anh nữa.”
“Thấy chưa, anh chỉ nói giỡn chút xíu em đã giận rồi. Vậy lần này đến phiên anh xin lỗi em. Em khác anh? Khác nhau mà yêu nhau, bổ túc cho nhau, sống suốt đời với nhau cũng là chuyện thường xảy ra. Như anh với chú Khê của em chẳng hạn, thân nhau nhưng khác tính nhau lắm. Nhưng thật ra em với anh không khác nhau đâu.”
Thi có vẻ quan tâm. Ông Hoạt tiếp tục nói:
“Mới gặp em, anh đã thấy thích rồi. Và anh cũng nhận thấy em không ghét anh. Như thế có nghĩa mình hợp tính với nhau, hay ít nhất có một điểm nào giống nhau. Có những người mới gặp nhau là dội ngay. Đó là một chuyện. Chuyện này quan trọng hơn, nhưng thật khó nói. Khó nói cho nó makes sense, nghĩa là cho nó có nghĩa lý để em có thể thông cảm. Thì đại khái như thế này. Sống mấy mươi năm ở nước người nhiều khi cũng cảm thấy lẻ loi. Tụi nó thằng thì gốc Nhật, thằng thì gốc Nga, gốc Đức, gốc Pháp, gốc Đại Hàn, gốc Tàu, đủ thứ. Anh chẳng muốn có gốc gác gì cả, anh không muốn có cái căn cước nào cả. Gốc của tôi hả? Gốc tỵ nạn. Anh muốn trả lời ngang xương như thế, còn hơn là nói rằng gốc của tôi là nơi tôi ghét, là nơi mà chúng nó cũng chẳng thương tôi. Rồi theo lời chú Khê của em, anh được biết em cũng như anh, không có quê hương. Hai người không có quê hương, hay là hãy dùng cái chữ nổ này, hai người vô tổ quốc, gặp nhau ở một xứ lạ rồi yêu nhau, rồi lấy nhau, thì chắc chắn sẽ ở với nhau lâu bền.”
Thi lắc đầu đáp:
“Anh nói thế là sai. Em đâu giống anh. Anh và em đều có quê hương. Quê hương nghèo khổ. Nhưng anh bỏ, em giữ.”
“Quê em đâu?”
“Bến Tranh.”
“Em đừng nói thế. Chú Khê với anh thân nhau, cái gì cũng nói cho nhau nghe. Bến Tranh là quê mẹ của em. Em ở đảo, em sinh trên một hòn đảo phải không, rồi lớn lên bên đó, biết gì về Bến Tranh đâu mà nhận càng.”
Thi hơi chột dạ. Cái chú Khê này. Không biết chú có nói hết mọi chuyện cho anh chàng này nghe hay không. Mà chú Khê chắc gì đã biết được mọi chuyện về mình? Cha là hải tặc? Có thể chú biết ngang đó. Nhưng mình còn mẹ. Mẹ khác hẳn, mẹ hiền từ, mẹ đẹp. Quê mẹ là quê của mình. Quê mẹ có khi còn đậm đà hơn cả quê cha nữa. Thật ra mình cũng đã có tình cảm với Bến Tranh rồi, chứ có phải chỉ muốn nhận càng đâu. Và chú Khê nữa, hình như chú Khê luôn luôn có mặt đâu đây, phải không. Có lần mình nói chú là quê hương của cháu, là nơi trú ẩn, là chỗ để nương tựa. Và trong sâu xa là… là gì nữa hả chú?
Cô trả lời, giọng nói bỗng dưng đượm buồn:
“Người ta không có quê hương cũng phải tạo ra một quê hương trong lòng để nhớ.” Cô nhớ câu chuyện chú Khê kể. “Huống là em cũng có chứ. Em khác anh.”
“Nhưng em có thành thật với lòng em không? Hay em chỉ sống trong vờ vĩnh, tưởng tượng.”
“Sao lại vờ vĩnh được! Em giống chú Khê…”
Ông Hoạt ngắt lời:
“Giống sao được mà giống! Em dứt khoát, lanh lẹ, sắt lẻm như con dao, còn thằng Khê nó lừng khừng, ba phải, cù lần. Như đàn bà không bằng. Công nhận là nó tốt lắm nhưng nhiều khi nó lề mề chịu hết nổi. Rồi lại có khi nó có những quyết định vô lý và đột ngột như thằng khùng. Em đừng khinh anh đã nói sau lưng chú của em, trước mặt nó anh cũng đã nhiều lần nói cho nó biết như thế. Nhưng vì em cái gì cũng chú Khê, chú Khê, làm anh phát sùng. Anh biết hết, anh biết Khê nó bỏ mẹ em ngang xương…”
Cô bỗng nhớ một lần chú Khê có kể lại chuyện Bến Tranh Rừng khiến cô bồi hồi xúc động. Thì ra có lẽ chuyện gì chú Khê cũng nói lại cho người bạn thân này nghe.
“… Nhưng thôi anh không nên nói hết với em về chuyện này. Rồi nó gặp em. Tất nhiên nó phải yêu em. Ai gặp em mà không yêu được. Nhưng nó không dám. Mà nó không dám thì anh có quyền dám chứ.”
Thi thảng thốt:
“Chú Khê yêu em? Sao anh biết? Chú Khê có nói với anh như vậy sao?”
“Không. Chuyện gì Khê cũng kể lại trừ chuyện này, tức là tình cảm riêng giữa em và nó. Anh đứng ngoài nhìn vào anh đoán. Có thể trúng mà cũng có thể trật. Nhưng chú Khê và cháu Thi sống gần gũi nhau bao nhiêu lâu rồi thì… thì nó có yêu em hay không, chuyện đó chỉ có một mình em là hiểu rõ hơn ai cả.”
Thi thẫn thờ:
“Thế mà em chẳng hiểu cái gì cả mới chết chứ. Chú đó coi vậy mà không phải vậy.”
Ông Hoạt nóng nảy:
“Nhưng điều đó không quan trọng. Anh chỉ cần biết em có yêu ‘chú Khê cuả cháu’ không? Em nói thật với anh đi! Anh muốn cái gì cũng phải rõ ràng, dứt khoát.”
“Yêu? Em cũng chẳng biết yêu là gì cả. Em nói thật đó. Tình yêu, ái tình, tình quê hương, tình hoài hương? Nghe mơ hồ và xa vời quá! Có lẽ em chưa gặp đúng người để em có thể yêu chăng nên em chẳng biết yêu là gì, khác thương như thế nào, khác thích ra làm sao… cho đến khi gặp… gặp…”
Ông Hoạt chau mày:
“Cho đến khi em gặp ai? Em nói cho anh nghe lập tức đi. Và phải nói thiệt. Anh chỉ cần biết như thế thôi. Đơn giản quá mà.”
Ông đột ngột im lặng, nhưng không giấu được vẻ nóng nảy, bồn chồn. Bỗng Thi nhổm người dậy, ông Hoạt vội níu cô gái lại như sợ đánh mất, và nói tiếp một tràng dài:
“OK, OK, cái đó, em biết cái gì không, cũng không thành vấn đề cho lắm. Em cứ sống với anh một thời gian rồi tình yêu tất nhiên sẽ đến. Hoàn cảnh đó vẫn thường xảy ra cho tất cả mọi người. Anh bảo đảm với em, chắc chắn là như thế. Rồi anh đâu em đó.”
Thi ngồi lại ngay ngắn, dựa lưng vào thành giường, cười ròn rã:
“Anh đâu em đó! Em nhớ có nói với chú Khê, ‘cháu không có quê hương, chú là quê hương của cháu. Chú ở đâu, cháu ở đó’. Em nói thiệt chứ không phải bịa đặt ra để chọc anh đâu. Anh có tin hay không, tùy. Bây giờ chuyện đời lại quay quanh lạ lùng. Anh sẽ thay thế chú Khê? Anh Hoạt ơi, anh đi đâu em đi theo đó, nghe anh.”
Cô dịu dàng đặt tay lên vai ông Hoạt. Ông cáu kỉnh:
“Chuyện của cả một cuộc đời mà cô giở cái giọng đó ra hả.”
Nói xong, ông hất tay của Thi đi nơi khác, vùng đứng dậy, mặt hằm hằm, đi đến tủ lạnh lấy chai bia đem đến cái bàn tròn cạnh cửa sổ ngồi nhìn xuống đường cái, uống từng ngụm dài.
Lần đầu tiên ông Hoạt có cử chỉ thô bạo đối với Thi như thế. Cô ngồi yên một chốc, cảm thấy ngượng. Rồi cô lặng lẽ tới bàn trang điểm. Xong đâu đấy, cô đi đến đứng bên cạnh ông Hoạt, ngập ngừng nói:
“Cháu xin lỗi. Em xin lỗi. Em chưa tính chuyện gì ra chuyện gì cả. Anh cứ về trên đó đi. Ngày mai anh đi, phải không? Em sẽ gởi thư cho anh. Bây giờ chia tay nhé. Cuộc chia tay nào cũng buồn, phải không anh, huống là, cô hạ giọng nói thật nhỏ, chia tay mãi mãi. Hôm nay xin anh cho em về nhà sớm.”
(Còn tiếp)