Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

lưu đày và quê nhà (kỳ 4)

0 bình luận ♦ 19.12.2024

Tượng Tiếc Thương_2

III

Trước đây, khi mới đến Hà Nội, ông đã ngạc nhiên trước những màu xanh của cây cỏ vùng Hồ Gươm, Gò Đống Đa, Chùa Trấn Quốc, Chùa Một Cột… Rồi miền Trung, cũng xanh tươi không kém.

Bây giờ ngồi trên xe đò lại nhìn những màu xanh khác nhau của đồng quê miền Nam. Xanh lá lúa, lá dừa, lá chuối, lá xoài, lá ổi, lá sua đủa, lá trầu, lá cau, lá hột điều, lá sen, lá súng, lá cỏ non… lá lá, vâng, lá của cây lá, loại cây có nhiều bẹ lá xòe ra như cánh quạt dùng để lợp nhà. Ông thầm nghĩ đất nước ta đúng là một bản hòa tấu màu xanh chạy dài giữa biển đông xanh và những dãy núi phía tây, dài nhất là rặng Trường Sơn, cũng xanh. Ta ít có núi đá khô khốc, trơ trụi.

Có người ví nước Ái Nhĩ Lan là một hòn đảo xanh như ngọc, nhưng liệu có xanh tươi như quê hương tôi hay không, ông bồi hồi cảm xúc. Đó là màu của hy vọng, của hòa bình? Nhưng con người thì muốn làm khác. Thay vì hy vọng, đau thương, tuyệt vọng; thay vì hòa bình, đánh đá nhau hoài trong suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm. Lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến tranh!

Ông chọn được một chỗ ngồi hàng thứ hai bên tay trái cạnh cửa sổ trên một chiếc xe đò đầy hành khách. Con đường trải nhựa đen chạy len qua những vùng biển xanh của cây, lá. Nhưng không thấy lá tranh! Lá tranh ở đâu? Tranh mọc đầy Trảng Lớn, Bà Đen, Long Giao, Chứa Chan, Suối Máu, Đồng Bang, Cà Tum… những trại tập trung mà những người tù cải tạo miền Nam thường nhắc tới. Tranh mọc nhiều ở miền Trung, miền Bắc, tranh tràn ra khắp đồng quê và rừng núi, tranh của mấy cánh rừng già ông đã qua. Và đặc biệt là tranh của Bến Tranh như tên gọi của nó!

Nhưng đã tới Bến Tranh đâu nào, ông trấn an. Một chốc nữa thôi là tái ngộ Bến Tranh nhé. Hai chữ tái ngộ lâu quá không được nhắc đến, không được sử dụng, nay bỗng dưng vang vang trong đầu như tiếng dội.

Xe cộ chạy ào ào, tranh nhau, vuợt nhau, nhiều lúc muốn quẹt vào nhau, muốn ép nhau văng xuống những thửa ruộng bên đường. Nhưng rồi đâu cũng vào đấy, tai nạn chưa xẩy ra. Chiếc xe chở ông cũng chạy nhanh quá, sắp vượt qua chiếc cầu bắc ngang qua sông Vàm Cỏ Tây. Chiếc cầu quá hẹp. Ông hồi hộp. Xong! Thế là xe không lọt xuống sông, không quẹt vào lan can cầu!

Ông đã dần dần bớt sợ cái lối xe chạy ẩu tả, bạt mạng, như thế này. Sống chết có số, ông ngẫm nghĩ, lo lắm thêm mệt. Khi xe qua khỏi Tân An, qua khỏi lăng Hậu Quân Nguyễn Huỳnh Đức, ông bắt đầu chú mục nhìn mé trái của con đường. Tân Hiệp đó rồi, chắc sắp đến Bến Tranh. Bến Tranh! Bến Tranh!

Bến Tranh bây giờ ra sao nhỉ kể từ khi ông bỏ nước ra đi? Rồi thảm họa đến với Thủy, đã lâu rồi, nhưng có lẽ gia đình ba của Thủy vẫn còn đó? Ông cụ chắc còn sống, nếu thế cũng được trên 70 tuổi. Thế sao ông lại nhận được thư từ Vàm Láng? Ông thắc mắc mãi.

Ông sẽ xuống xe tại ngã ba quốc lộ và đường vào Bến Tranh, đứng đấy chờ khoảng 15 phút, rồi sẽ lên một chiếc xe chở hành khách loại nhỏ, hoặc đi xe ôm, chạy một quãng, qua một cây cầu nhỏ sẽ đến chợ. Ngôi nhà ba của Thủy gần đấy. Ông đã hỏi lại đường đi nước bước dù ông chưa quên.

Xe vẫn chạy nhanh. Ông cảm thấy xe chạy như giông như bão ngay cả khi phải tránh các xe chạy ngược chiều, rồi chen nhau, rồi vượt nhau trên con đường hẹp. Nguy hiểm nhất là ở những khúc quẹo. Lại qua những vùng biển xanh của lá, qua những chiếc cầu ngắn, qua những con sông , con rạch, và đây rồi, ông thoáng thấy bản chỉ tên cầu Bến Chùa. Hay Bến Chùa là tên mới của Bến Tranh? Nhưng Ngả Ba Trung Lương đã hiện lên kia rồi, nghĩa là xe đã vượt quá con lộ rẽ trái vào Bến Tranh. Vậy thì Bến Tranh ở đâu?

Vài người trên xe hỏi nhau, đáp nhau. Chạy thẳng thì tới Mỹ Tho, nhưng quẹo mặt hướng về Long Định, Cai Lậy, thì tiến đến An Hữu, Hòa Khánh, xong tới bắc Mỹ Thuận. Nay không còn bến bắc nữa, chiếc cầu mới “rất đồ sộ, hoành tráng, hiện đại” vừa được xây dựng xong, cũng mang tên cầu Mỹ Thuận. Còn Cái Bè, Cái Thia, hai thị trấn khá lớn ven sông Cửu Long, thì nằm sâu về phía trái của con đường cái sau khi qua khỏi Cai Lậy. Thế thì Bến Tranh ở đâu? Ông Khê thò đầu ra, nhìn lui lẩm bẩm. Người phụ xế đập tay rầm rầm vào cửa xe la lớn, nguy hiểm quá, nguy hiểm quá, thụt đầu vô ngay cái ông thần này! Ông lẩm bẩm, vậy thì mình phải đi thêm một chuyến nữa tìm Bến Tranh. Bây giờ cứ thử đến xem cầu Mỹ Thuận rồi kiếm xe trở lui Sài Gòn.

Ông ngồi ở một góc phòng, chờ tắc xi đến, ngáp vặt, uể oải đưa mắt nhìn quanh. Trần — đèn chùm thủy tinh lộng lẫy, nhiều kiểu khác nhau, treo lủng lẳng ở nhiều nơi. Tường — hình thắng cảnh nội địa và thế giới, và mỹ nhân quốc nội quốc ngoại mắt đắm đuối gợi tình, miệng cười để lộ hàm răng đều đặn cắn nhẹ vào chót lưỡi hồng, và phô bày làn những da trắng nõn, đen dòn, bùng quân, bánh mật. Và sàn nhà — lát đá cẩm thạch hoa văn rực rỡ trên đó nhiều bộ xa lông bóng lộn xếp đặt nhịp nhàng, cân đối.

Phòng tiếp tân rộng thênh thang, mát rượi, có nhiều khu bày bán nhiều mặt hàng khác nhau. Nào đồ cổ, đồ ngà, đồ thủy tinh, đồ sứ, đồ đá, đồ sừng. Nào các sản phẩm thủ công nghiệp đủ loại, các nhạc cụ cổ điển như đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn gáo, đàn cò, đàn bầu, đàn tơ-rưng. Rồi áo dài lụa tơ tằm thêu hoa, thêu chim, đặc biệt là chim phượng, khăn vành hoàng hậu màu vàng, khăn vành công nương màu xanh, đỏ, hổ phách, các loại áo tứ thân nay không còn ai dùng, chỉ thấy trên sân khấu, các loại y phục sặc sỡ màu sắc của “dân tộc ít người”. Rồi đến ảnh lưu niệm, bản đồ, hình quảng cáo… Có cả những chồng nón lá bài thơ, nón Gò Găng, khăn đóng. Nhiều nhóm du khách người nước ngoài đứng nhìn trầm trồ, chỉ trỏ.

Giấc ngủ mê mệt đêm qua của ông đầy mộng mị. Sáng dậy ông thấy cổ đắng nghét, mắt cay sè mở ra không nổi. Ông nhắm mắt lại ngủ tiếp. Nếu cô phụ tá quản lý khách sạn không gọi ông dậy, ông sẽ nằm mê mệt cho đến chiều, cho đến ngày hôm sau, không chừng.

Hôm đi tìm Bến Tranh lần thứ hai, ông không gặp Thủy đã đành, mà những người thân, người quen của gia đình Thủy cũng không còn một ai. Cả ngôi nhà của ba Thủy ngày xưa cũng hoàn toàn khác lạ, giống như ngôi nhà từ đường của ông ở Huế, đã bị sửa đổi nhiều và do một cơ quan nhà nước quản lý. Hỏi thăm về ông Tính, ba của Thủy, không một người nào biết. Cũng may ông còn giữ địa chỉ của đứa con gái của Thủy do một người từ Vàm Láng gởi cho ông. Cứ tìm gặp Thi, đứa con gái của Thủy, mình sẽ dần dà biết những chuyện khác, ông tự an ủi.

Sau chuyến đi đó, lúc trở về khách sạn, ông cảm thấy buồn, một thứ buồn nản dây dưa kéo dài. Tối hôm qua ông muốn tìm một cái gì khác lạ, làm một cái gì khác lạ, thử xem cái chán nản có vì thế mà tăng hay giảm hay không. Tăng hay giảm đều tốt hơn cái tình trạng dây dưa kéo dài như thế này, ông ngẫm nghĩ.

Nghĩ mãi chả biết nên làm cái gì, ông đành phải đến quầy rượu gọi Rémy Martin uống nhâm nhi một mình. Mềm môi uống tiếp, uống nhiều, đinh ninh rằng càng uống thêm, cái buồn càng bớt. Ông nhớ người xưa nói, “Uống rượu tiêu sầu”.

Thoạt tiên mặt ông nóng lên rồi đỏ gay như cua luộc, gân trán nổi lên như những con giun, nhìn vào gương ngờ ngợ tưởng một người nào khác đang muốn sửng cồ gây gổ với mình. Rồi người ông như lên cơn sốt, ngứa ngáy, bực bội, trống ngực đánh muốn bể lồng ngực, lưỡi đớ ra lè nhè, tay chân bứt rứt quờ quạng, thân hình xiêu vẹo.

Thế mà, dần dần, lạ chưa, giọt rượu từ từ biến chất, không còn gắt nữa, lại có vị ngọt êm ái, dịu dàng. Nước cam lồ của nhà Phật liệu có ngon hơn không? Bàn tay ông bớt run cầm cái ly hắt hắt những giọt rượu vào vào cổ họng, hết ly này đến ly khác. Cái mặt của ông lại từ từ tái đi, sống lưng ớn lạnh, bụng cồn cào, cổ nôn nao, người bải hoải, tay nhấc lên lấy ví tiền ở túi quần sau một cách khó khăn, chân muốn sụm xuống. Đôi mắt lờ đờ thấy người đứng bán ở quầy hàng mờ mờ, lung linh. Ông cố mỉm một nụ cười cảm thấy cái miệng cứng đơ, lưỡi muốn thè ra. Ông không nói — ông biết rằng tiếng nói của ông không thể phát ra một cách bình thường.

Trả tiền xong, lấy hết sức bình sinh, ông cố vịn thành cầu thang lê từng bước về phòng. Đến trước cửa phòng, ông đưa tay sờ soạn lỗ khóa, lập cập rút chìa khóa ra, may quá mở được cửa. Và khi đã đóng được cửa lại thì bao nhiêu sức đề kháng đều tiêu tan, ông gục xuống sàn nhà lúc nào không hay.

“Em vẫn để đồng hồ của anh reo lúc sáu giờ sáng như anh dặn,” cô phụ tá quản lý khách sạn vừa nhìn ông một cách lo âu vừa nói. “Hơn mười hai giờ trưa em đến, thấy cửa phòng anh vẫn đóng im ỉm. Em xuống phòng lễ tân không thấy chìa khóa phòng anh treo trên tấm bảng. Thế là anh đang ở trong phòng. Cho nên em lại quay lên đánh bạo mở cửa vào xem sao, thì thấy anh như thế này.”

“Em làm sao mở cửa phòng anh được?”

“Em có những chìa khóa riêng, không phải chỉ mở được phòng anh mà thôi.”

Ông ngượng. Tuy vẫn còn chóng mặt và mệt rã rời, ông miễn cưỡng tiếp lời cô phụ tá:

“Cô nói gì tôi nghe không rõ, xin lỗi cô. Cô nói lại đi! Cái đầu của tôi nó mụ rồi. Tai thì điếc. À, à… cô bảo cô đi đâu rồi quay lên?”

“Em xuống phòng lễ tân…”

“Ô, cô nói nhầm, nhưng tôi hiểu.” Ông ngắt lời, giọng nói còn lè nhè. “Cô muốn nói cô xuống phòng tiếp tân, tiếp khách dưới kia có cái bảng treo chìa khóa?”

“Vâng, phòng ấy gọi là phòng lễ tân. Anh hẳn là đang mệt, em đi lấy cái khăn nóng cho anh nhé.”

Ông tỉnh người hẳn, định thần nhìn cô phụ tá quản lý khách sạn, ngẫm nghĩ. Cái cô Thủy này cũng khá xinh đẹp, duyên dáng, lại biết săn đón, chiều khách một cách thông minh, ý nhị. Mình nói quấy quá vài câu chơi:

“Khăn nóng thì chưa cần lắm, nhưng có chuyện này tôi phải nói ngay cho cô biết. Cô đã làm một việc sai trái.”

“Thế ư?” cô vừa đáp vừa nhanh nhẹn vói tay lấy bình hoa. “Việc gì thế, anh nói ngay đi.”

“Cô đã vi phạm, cô đã xâm nhập… cô không tôn trọng cái tự do của tôi, cái… riêng tư của tôi. Đột nhập vào đây mà không có sự đồng ý của tôi. Tôi sẽ… xu cô.”

Ông thấy thỉnh thoảng vẫn bị líu lưỡi.

“Sẽ làm sao?”

“Sẽ xu cô, nghĩa là sẽ đưa cô… ra tòa.”

Cô cười duyên: “Anh nỡ lòng nào đối xử với em như thế? Eo ôi, em sợ quá!”

“Thế à? Cô sợ thật sao? Thế thì, lần này tha. Nhưng bù lại tôi bắt đền cô nhé. Cô phải ‘Bù anh một tháng trời gần ‘… “

Thủy, tay đang cầm một đóa hoa hồng thật tươi, màu vàng, to cánh, còn đọng nước trông như những giọt sương, dịu dàng nói:

“Anh vẫn còn say, nói bậy! Ráng điều độ đi. Chứ anh mà cứ thế sẽ có ngày…”

“Sao em không nói tiếp đi. Sẽ có ngày làm sao?”

“… Có người uống rượu nhiều quá…”

“Uống nhiều quá,” ông cướp lời, “sẽ có ngày chết tươi là cùng chứ gì?”

“Chứ sao. Em làm tại khách sạn này mới hơn hai năm mà đã chứng kiến ba người chết vì say rượu. Từ sáng đến trưa không thấy mở cửa phòng, như anh vậy. Tới lúc người ta thử vào xem thì ôi thôi, đã chết ngắt. Khổ cho em quá, tối hôm qua nếu có em ở quầy rượu thì đâu đến nỗi!”

Cô này nói nghe như thiệt, nghe như người yêu nói với người yêu. Như Thủy của mình ngày xưa nói với mình.

Từ khi biết cô phụ tá quản lý cũng tên Thủy, ông tìm cách trò chuyện, mua tặng vài món quà, và đóng vai si tình. Hình như mình muốn yêu ai cũng được yêu lại, không nhiều thì ít. Mà mình càng vờ yêu, càng có kết qủa tốt. Nói dối bao giờ cũng thành công hơn nói thật. Nhưng cô có yêu tôi chút nào không hả cô, hay cả hai ta đều vờ vĩnh cho vui vậy thôi mà, ông nghĩ bụng.

“Cám ơn cô đã có lòng chiếu cố.”

“Hôm nay anh khách khí quá!”

Cô quay người đi đến cạnh chiếc đôn sứ hình hai con voi phục trên đó có một lọ thủy tinh trong suốt cắm một đóa hồng còn tươi màu tím nhung. Dưới lọ hoa là tấm vải lót trắng toát hình trái tim với những đường ren cầu kỳ. Thủy vừa nhanh nhẹn thay nước, thay hoa, vừa nói bằng một giọng ngọt ngào, ấm áp:

“Đây không phải là công việc của em đâu, nhưng em muốn tự tay làm lấy cho anh đấy, anh biết không. Hôm qua hoa hồng màu tím nhớ, hôm nay em thay cho anh hoa hồng màu vàng thương. Nhưng bây giờ em phải đi đây một chốc. Ngồi đây chờ em nhé, em quay trở lại ngay.”

Ông nhìn theo Thủy. Đó là một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, xinh đẹp. Ông chú ý ngay đến mái tóc ngắn màu nâu đậm hoe vàng một vài nơi, cắt tỉa thật khéo, thật tự nhiên, trông như lá cỏ dài mọc hoang. Đôi mắt của cô to, đen, sâu, viền tô đậm, cặp lông mày sắc. Thủy hay mỉm cười nhưng là nụ cười lười biếng, lơ đãng trên khuôn mặt thanh tú và hơi gầy. Dáng người cô dong dỏng cao, thường mặc những chiếc áo chẽn đến nách, phô bày hai cánh tay trần thuôn thả, nuột nà, lông măng mọc lơ thơ, và hai bàn tay ngón búp măng dài đeo mấy chiếc nhẫn kim cương. Cô nói giọng Bắc nghe êm đềm, du dương. Những câu nói vừa rồi cô nàng đã nói bao nhiêu lần rồi nhỉ, và cho bao nhiêu người nghe rồi nhỉ. Nói nhiều đến thuộc lòng chăng? Và lời nói thì có vẻ “tuồng” nhưng thái độ lại thành thật. Đóng kịch giỏi chăng? Thì cũng vui thôi. Còn mình cứ nghe như thể mình là người đầu tiên được nghe cô nói như thế.

Tưởng tượng thêm một chút nhé, như thể được nghe Thủy của anh ngày xưa. Hồi đó em của anh nhỏ tuổi hơn cô này bây giờ nhiều, hồn nhiên, trong sáng, trìu mến. Em đẹp không? Anh không muốn đặt câu hỏi đó từ khi anh bắt đầu yêu em, và cũng không bao giờ bận tâm so sánh em với người này, người nọ. Chỉ biết rằng em choán ngập cả hồn anh. Ngày xưa em cũng thích hoa hồng, em cũng biết nói nhiều lời tình tứ yêu đương mà anh không bao giờ quên. Anh ơi, bất cứ hoa gì cắt từ ngoài vườn đem vào cắm trong phòng đều bớt đẹp đi, trừ hoa hồng. Hoa hồng phải được chưng trong phòng, một chùm cũng đẹp, một cái riêng rẻ càng đẹp hơn, anh đồng ý không? Đồng ý hả anh? Nhưng đó không phải là ý của em đâu, em học lóm trong sách, và em nhớ, và em ghi mãi trong lòng chuyện đó. Là vì… là vì em cũng cảm thấy rằng hoa hồng mọc ngoài vườn nhiều khi trông lẻ loi, bơ vơ, như đang trông chờ một biến cố, như em vậy đó, như em khi anh chưa tìm đến.

Lòng ông bồi hồi.

Những năm chiến tranh kéo dài. Một số ngoại ô của quận lỵ, thị trấn nhỏ miền châu thổ sông Cửu Long thuộc vào vùng xôi đậu, nhất là về đêm. Ban ngày thỉnh thoảng cũng có tiếng súng, những toán quân lẻ tẻ bị phục kích, những đoàn quân xa bị gài mìn. Nhưng anh Khê, hồi đó còn trẻ lắm, cũng phải vào Bến Tranh một chuyến thử coi, anh nhủ thầm. Bến Tranh, một quận lỵ nhỏ bé nằm cách quốc lộ không xa lắm, giáp ranh với tỉnh Định Tường.

Ông Tính niềm nở mời:

“Chiều nay dạy học về anh ghé tôi chơi đi! Tôi ở Bến Tranh gần đây thôi. Để nhậu một bữa cho vui. Đồ nhậu ê hề. Nè, cá lóc nướng bẹ chuối hoặc nướng trui. Mà anh biết ăn cá lóc không? Phải biết ăn đầu, ăn lòng mới ngon, nhất là bộ lòng. Người Nam chúng tôi gọi là ruột cá lóc. Rồi ốc gạo xào tỏi xúc bánh tráng này, rồi giò heo giả cầy, gà thiến xối mỡ này. Đặc biệt sẽ chiên thêm cho anh một con cá tai tượng đang nuôi trong bồn. Khách qúy mà.”

“Mới nghe anh nói thôi,” anh Khê vui vẻ đáp, “tôi đã thèm chảy nước miếng. Nhưng…”

“Không nhưng nhị gì cả! Ghé tôi chơi đi! Toàn là đồ làm tại nhà cả mà. Hôm sau, cháo thịt trăn đặc biệt, mỡ trắng tinh nổi lình bình thành những hình tròn như đồng xu nhỏ trên mặt cái nồi bự. Rồi lương xào lăng, ếch chiên bơ. Nghe đã không? Và rượu nếp than cũng nhà cất lấy. Không uống rượu hả? Thì tôi biểu đi mua la-ve. Ngày mai thứ bảy anh không bị kẹt cái gì ở Sài Gòn chớ? Ở lại với tôi tối nay nhậu một bữa thâu đêm, sáng dậy chèo xuồng đi thăm cù lao Rồng cho biết. Thứ hai hãy về Sài Gòn. Chắc chắn anh sẽ thích.”

Ông Tính là giám thị của ngôi trường tư tại Mỹ Tho nơi anh Khê dạy môn toán mỗi tuần vào ngày thứ sáu. Trường học cách Bến Tranh khoảng mười mấy cây số. Anh Khê dạy liền một hơi tám tiếng cho hai lớp đệ ngũ và đệ tứ, mỗi lớp bốn tiếng. Những ngày khác trong tuần anh đi dạy kèm thêm tại tư gia ở Sài Gòn và theo học tại một phân khoa đại học.

Anh còn trẻ lắm, mới bước chân vào đời, nhỏ hơn ông Tính trên 20 tuổi. Không hiểu do một tình cờ nào ông Tính và anh Khê vẫn gọi nhau là ‘anh’ và xưng ‘tôi’. Anh chưa có một liên hệ thân mật nào với ông Tính cho nên không khỏi ngạc nhiên trước lời mời sốt sắng đó. Tuy nhiên một phần vì tò mò muốn biết thêm nếp sống miền Nam mà anh đã bắt đầu yêu mến, và phần lớn do ở những món ăn nghe hấp dẫn quá, anh nhận lời.

Khăn bàn và vài thứ lặt vặt vừa được dọn lên, ông Tính đã gọi lớn:

“Thủy con! Lên đây ngồi ăn luôn thể.”

Cô gái mặc áo dài trắng, quần dài trắng từ nhà dưới chậm rãi đi lên, nhìn thẳng đằng trước, tiến vào bàn. Không dám nhìn cô gái, nhưng anh vẫn thấy được cái bóng dáng yểu điệu đó. Anh nghĩ thầm trong bụng ở nhà ai lại ăn mặc kiểu cách như thế này, sao không quần dài đen, áo bà ba, có phải tự nhiên hơn không. Cô gái miền Nam này có lẽ đã bắt đầu bị lây cái lối khách sáo của miền Trung, miền Bắc, mỗi khi có khách đến nhà là phải ăn mặc như khi đi ra đường, anh tự nhủ.

Mà mình không nhìn cô ta như thế có thất lễ không? Lỡ cô muốn chào mình lại tưởng mình cố lờ đi thì oan cho mình quá. Nhưng mình vẫn còn cái tật nhát gái chứ có dám coi thường ai đâu. Ừ mà cũng lạ, con gái yểu điệu, xinh đẹp, dịu dàng chứ có phải là chằn tinh chằn lửa đâu mà mình bối rối không dám nhìn, không dám bắt chuyện. Nhớ lại hồi ở trung học, mình còn nhút nhát hơn nhiều.

Anh đang nghĩ ngợi lan man để cố trấn tĩnh thì ông Tính lại nói oang oang:

“Xin giới thiệu với anh Khê, đây là con gái lớn của tôi. Thủy, chào thầy Khê đi. Thầy dạy cùng trường với ba. Thầy giỏi lắm đó con. Tuổi trẻ tài cao thứ thiệt đó con.”

Cô gái lúng túng nói lí nhí trong miệng những gì anh không nghe rõ, chỉ thấy mặt cô ta phớt đỏ lên vì thẹn. Một người con gái vì anh mà thẹn, lạ chưa! Anh cảm thấy tự tin phần nào, và anh nhìn thẳng vào khuôn mặt thẹn thùng đó. Sau cái nhìn thật nhanh, anh quay đầu nhìn ra ngoài sân. Trời đã tối nhưng có ánh trăng chiếu chênh chếch, có con chó xù lông vàng nằm kê mỏ lên bậc thềm đôi mắt nhắm lim dim — không hiểu sao cảnh tượng đó anh nhớ hoài trong đời. Anh ho khan vài tiếng, cảm thấy mang tai đỏ lên, tim đập loạn. Là vì cô gái đẹp quá. Không ngờ ông Tính lại có cô con gái đẹp như thế, anh băn khoăn. Ông Tính tiếp lời:

“Mẹ nó mất sớm cho nên nó dở lắm, không biết nấu nướng gì cả. Mấy món ăn này phải nhờ dì nó làm. Dì nó là em của mẹ nó chớ không phải là vợ kế của tôi đâu. Ngoài Trung có gọi là dì không, hay gọi là cô, là bác?”

“Cũng gọi là dì,” anh đáp lại thật nhỏ, nghe tiếng nói của mình mất tự nhiên.

“Tôi nói nhỏ cho anh nghe đây — ông chồm người qua cho gần anh hơn, nói ồm ồm — tôi cũng muốn như vậy… mà dì nó chưa chịu cá cắn câu đó thôi. Ha ha! Dì nó ở Tân Hiệp, làm giùm xong mấy món rồi giả bộ có việc gấp nên đã dông tuốt mất rồi. Làm cho cao giá thêm đó mà. Lần sau anh Khê ghé đây nữa nghe, tôi sẽ giới thiệu dì của con Thủy cho anh quen biết thêm.

Anh Khê bỗng thấy vui vui, có cảm tưởng như mình đã là một thành phần của gia đình ông Tính.

“Ba… thiệt! Nhưng con cũng có làm món tráng miệng chớ bộ.”

Thủy vừa nói vừa cúi mặt nhìn những ngón tay mình đang vân vê một góc chiếc khăn bàn, những ngón tay dài, thon, trắng, giọng nói nhỏ nhẹ, ấm áp. Đến lúc đó anh mới nghe được giọng nói của Thủy. Anh thầm nghĩ giọng nói nghe sao hay đến thế, êm ái, ngọt ngào. Nghe như tiếng hát, tiếng ru. Trong lòng người ta tất nhiên phải có điều gì vui lắm mới nói được cái giọng nói như thế chứ.

“Anh Khê biết không, con Thủy ngó vậy mà còn con nít lắm. Cách đây mấy năm, hồi còn học đệ ngũ đệ tứ gì đó, nó giống như thằng con trai, thiếu đường muốn ở truồng tắm sông.”

Anh đỏ mặt. Cô gái cúi gầm đầu nhìn vào chén cơm của mình. Ông Tính không để ý gì đến cô gái, vừa gắp món ăn cho ông và cho anh, vừa tiếp tục câu chuyện một cách sôi nổi:

“Hà hà, cái này tức cười lắm… Tôi phải cho anh biết mới được… Trước đó nữa, nghĩa là hồi nó còn học đệ lục, nó mét tụi nó sáu bảy đứa rủ nhau ra ngoài vàm tắm truồng. Chúng nó núp trong một lùm cây, một đứa mặc quần đen lội xuống nước, rồi cổi quần ném lên lùm cây trên bờ cho đứa khác mặc. Và cứ thế từng đứa một đi xuống sông. Cả lũ mà chỉ có một cái quần bị ướt. Tắm xong khi đi lên bờ cũng làm cái kiểu ấy. Tưởng là tài khôn lắm …”

Thủy nhìn bố năn nỉ:

“Thôi ba, thôi ba. Đừng nói nữa!”

“… Thế mà cũng bị một thằng ranh quỷ đứng rình nhìn ở lùm cây kế đó. May sao chú Tám hàng xóm đi qua bắt gặp… giũa cho thằng quỷ đó một trận, thiếu đường cho nó mấy cù loi. Tụi con gái cũng bị chú giũa te tua. Chứ đâu có làm điệu, làm bộ như bây giờ, phải không Thủy?”

Thủy cau mày nhìn cha như van nài.

Ông Tính tiếp:

“Học hết lớp ở đây thì tôi đưa nó lên Sài Gòn. Nó loạng quạng thế mà thi vô được đệ nhị cấp trường Gia Long. Học hành không biết ra sao nhưng đã tập tành nhiều chuyện rắc rối. Nào áo dài trắng, áo dài xanh, áo dài tím, nào guốc cao gót, nào dù cánh dơi, nào khăn ren, nào bóp đầm, nào nhật ký viết bằng mực tím. Hết hè năm nay nó lên đệ nhất, láng cháng sang năm đã là cô tú rồi đó. Nhưng mà con gái học cho lắm làm được cái khỉ mốc gì cho tốn cơm. Lo kiếm chồng đi là vừa nghe con!”

Lần này cô gái mặt đỏ như gấc, ngước mắt nhìn cha oán hận. Anh nghĩ rằng mình phải nói chen vào một câu gì đó cho cô gái đỡ ngượng, nhưng anh lại buột miệng — anh vẫn có cái tật ăn nói trật chìa, lãng xẹt:

“Bác nói thế chứ… à anh, anh nói đùa cho vui vậy thôi. Chứ con gái lớn như cô Thủy ai lại đi tắm truồng. Không biết xấu hỗ sao!”

Thủy đứng phắc dậy nói lí nhí gì với bố rồi quay ngoắt người đi một lèo xuống dưới nhà mặt lạnh như tiền không thèm ghé mắt nhìn anh một lần. Ông Tính gọi mãi Thủy cũng không chịu lên.

Mối tình của anh khởi đầu như thế.

Từ đó về sau, anh ghé nhà ông Tính thường xuyên hơn, nhất là vào những cuối tuần biết có Thủy về quê.

“Tuần sau ghé Bến Tranh chơi nghe anh Khê.” Ông Tính chỉ nói thế nhưng anh biết chắc chắn có Thủy từ Sài Gòn về.

Dần dà, anh tìm đến thăm Thủy tại nhà trọ ở Sài Gòn. Rồi họ yêu nhau sôi nổi, say sưa, cuống cuồng. Đó là mối tình đầu của hai người? Không hẹn mà cả Thủy lẫn anh đều không thích mấy chữ “mối tình đầu”. Tại sao lại tình đầu? Nghĩa là sẽ có tình thứ hai, thứ ba?

Không! Họ không hứa hẹn gì với nhau, nhưng trong mắt nhau, trong từng lời nói vu vơ của nhau, trong từng cử chỉ nhỏ nhặt của nhau, họ đều hiểu một cách thật đơn sơ và cũng thật sâu xa rằng họ sinh ra để yêu nhau, để lấy nhau, sinh con đẻ cái, để suốt đời trao cho nhau số phận của nhau. Nếu có cuộc sống luân hồi, họ sẽ cùng tái sinh vào kiếp sau, lại gặp nhau, lại yêu nhau, cứ thế trong hằng hà sa số kiếp. Đó là ước nguyện tha thiết của họ.

Họ chỉ muốn yêu nhau và cố quên tất cả mọi chuyện phiền phức khác, quên cả thực tế đang xẩy ra chung quanh họ. Họ oán ghét chiến tranh đang diễn ra dưới nhiều hình thức. Họ không muốn nghe tiếng súng vọng tới, họ không muốn thấy những đoàn quân xa kéo đi, những đoàn xe cứu thương kéo về. Họ không thèm đếm xỉa gì đến tình hình đang sôi bỏng của đất nước. Họ không bận tâm đến những cái gọi là lý tưởng quốc gia, thành trì chống cộng, thế giới tự do. Những chuyện đại sự đó, họ cho rằng nằm ngoài tầm tay của họ, và đã có người khác chuyên trách.

Miền Nam không khéo sẽ có ngày sụp đổ như một vài tiên đoán vu vơ trên báo chí, trên những trang bình luận thời cuộc. Họ không tin điều phi lý đó có thể xẩy ra.

Thế mà chuyện phi lý đã xẩy ra. Trời đất quay cuồng, gió mưa u uất, miền Nam bỗng dưng không còn nữa! Và những tai họa ngoài tất cả mọi dự liệu đã đổ xuống.

Và anh đánh mất Thủy. Nhưng anh đinh ninh sẽ có ngày anh tìm thấy Thủy. Nào ngờ! Từ ngày biết được đích xác Thủy cũng không còn nữa, anh sống trong khủng hoảng, nhiều khi như người mất trí, hết năm này qua năm khác. Tuổi đời cứ thế chồng chất, bao nhiêu năm đã trôi qua, bọn thanh thiếu niên gọi anh là chú, là bác, người lạ gọi anh là ông, mà ông vẫn không thể nào quên được Thủy, không thể nào tìm được sự yên vui trong tâm hồn.

Ông bây giờ đã là người đứng tuổi, vẫn độc thân dù đã trải qua nhiều cuộc tình. Ông chung sống với những người đàn bà ông không yêu, mau chán, mau thôi nhau. Hình bóng của Thủy vẫn đeo lấy ông như một ám ảnh không rời.

Ông có một thói quen kỳ cục là mỗi lần gặp một người đàn bà nào mang tên Thủy, trạc tuổi của Thủy, không cần đẹp hay xấu, ông muốn làm quen ngay, muốn gần gũi ngay, và luôn luôn tìm thấy ở người đó có một vài nét của Thủy. Ông nhớ đã đọc ở đâu đó rằng cái tên thì có gì là quan trọng. Ông nhớ lõm bõm vài câu thơ của Shakespeare: What’s in a name? that which we call a rose/By any other name would smell as sweet. Thế sao? Hoa hồng dù mang tên khác vẫn thơm như thường?

Nhưng riêng ông, cái tên Thủy luôn luôn gây ấn tượng mạnh, như tiếng chuông gọi hồn, như lời phù chú. Lẽ dĩ nhiên lúc làm quen với những người tên Thủy, có khi ông bị cự tuyệt, nhưng khi được chấp nhận, ông chỉ ở với người ta trong một thời gian ngắn để cuối cùng nhận thấy rằng việc làm đó của ông chẳng qua chỉ để đánh lừa người, và tự đánh lừa. Thì lại phải xa nhau thôi.

“Anh nghĩ gì mà thừ người ra như thế? Không chịu khen em một tiếng xem nào?”

“Em hôm nay đẹp lắm!”

“Không phải! Em muốn nói khen tài em cắm hoa. Có đẹp không anh?”

Ông đáp giả lả:

“Đẹp. Dĩ nhiên là đẹp,” ông đáp nhanh, rồi lại bồi thêm một câu nghe đã sáo mòn, “nhưng không đẹp bằng hoa biết nói.”

Thủy không giấu được nụ cười kiêu hãnh:

“Em đẹp? Anh khéo khen phò mã tốt áo. Cho phép em khoe khoang một chút nhé. Khi còn học ở Đại Học Tổng Hợp khoa Ngoại Ngữ, em có thi Hoa Hậu Duyên Dáng Việt Nam, và đoạt giải Á hậu, nghĩa là giải nhì.”

“Thảo nào. Em xong Đại Học rồi à? Hà Nội hay trong này?”

“Trong này chứ! Em từ Hà Nội vào thành phố vào quãng năm 80. Lúc đó em còn học năm cuối trung học.”

“Thế là anh đoán được tuổi của em rồi. Năm đó em khoảng mười chín, hai mươi là cùng. Cộng thêm, xem nào, năm nay 2002, tức là hai mươi hai năm nữa, vậy… năm nay em… ba mươi tuổi.”

Thủy nhún vai theo lối con gái Tây phương và lắc đầu nhè nhẹ làm cho đôi bông tai đu đưa trông thật vui mắt, trả lời:

“Tính cộng của anh thế là nhất! Thôi, ta hãy dẹp cái tuổi qua một bên, để em kể chuyện vui vui này cho anh nghe. Hồi đó em học lớp 12 trường Nguyễn Trãi, anh biết trường Nguyễn Trãi chứ?”

“Biết. Anh cũng coi như là dân Sài Gòn trước 75, biết nhiều lắm. Trường Nguyễn Trãi ở Khánh Hội chứ gì.”

“Vâng, đúng thế. Em muốn vào trường Nguyễn thị Minh Khai oai hơn, nhưng vào đó khó quá. Một hôm, vào giờ nghỉ trưa, ông thày môn Văn phê học bạ — dường như ông ấy có đi học tập cải tạo mấy năm thì phải, thành phần gia đình liệt sĩ nên được cho dậy lại — thì em lân la đến xem …”

“Ông thầy nào mà lại cho học trò xem ông phê học bạ?”

“Không. Ông ấy bảo, đi chỗ khác chơi, nhưng em rắn mặt lắm. Vả lại ông ấy người miền Trung, trông hiền khô, giọng nói nhỏ nhẹ, còn em thì lúc ấy… em cũng đã xinh lắm rồi nhé. Cho nên em bảo em thích đứng đây xem thày làm việc cơ. Ông nhìn em im lặng…”

Ông ngắt lời:

“Thế là ông thầy đó cũng hơi …”

“Hơi thế nào?”

“Hơi dê.”

“Bậy nào. Để em kể nốt. Tình cờ em thấy cuốn học bạ của em nằm ngay trên bàn của thày. Em đánh bạo cầm lên giở ra xem thày phê em ra sao. Em mới giở qua trang bìa, thày… chặn… tay em lại. Thì thôi vậy. Nhưng trước khi bỏ đi, em chỉ vào tấm ảnh của em trong cuốn học bạ và nói, thày thày, xem em đẹp như Ngụy phải không thày.”

Nói xong, Thủy cười rũ cả người. Ông tò mò:

“Rồi sao nữa?”

“Chả làm sao cả. Thấy ông ấy mở to mắt ngạc nhiên và khẽ quát ‘Hả?’ là em đã chạy vụt ra khỏi lớp.”

“Ông thầy đó dở quá, nếu gặp anh thì cái kết thúc đã khác.”

“Khác như thế nào?”

“Anh đóng kín các cửa lại không cho em chạy thoát đi đâu được, rồi rút roi ra tẩm cho em một trận tơi bời hoa lá.”

“Anh nói cái gì kỳ lạ vậy? Giáo dục hiện đại của ta không cho phép thày đánh học trò, nhất là khi cô học sinh ấy đã là một thiếu nữ như em. Mà roi đâu có sẵn để rút ra liền như thế được, a, — đỏ mặt — a cái anh quái quỷ này! Anh mà làm thày thì có mà đốt trường! Thôi, em không thèm nói chuyện với anh nữa đâu.”

“Xin người đẹp bớt giận, anh xin rút lời nói đó lại. Với lại anh biết tính của anh như thế cho nên có bao giờ dám làm thầy giáo đâu. Anh chỉ muốn làm học trò của em thôi nhé. Cô giáo ơi, tôi thật có phúc… được quen biết em.”

“Thế thì hỏng!”

“Lại hỏng! Sao vậy?”

Thủy lườm ông:

“Ai lại học trò gọi cô giáo là em?”

“Thế hả. Nhưng mà này, người đẹp lãng phí lắm. Cái hoa tím đang còn tươi như thế sao em đã vội vứt nó đi.”

“Nó còn tươi là nhờ máy lạnh chạy suốt ngày đêm. Nhưng tươi thì tươi cũng đã mất hết hương thơm rồi, phải thay hoa khác. Anh thử để nó ngoài trời xem, dưới bóng râm nhé, nó cũng héo ngay. Bên ngoài nắng như thiêu như đốt thế mà trong này mình ngon lành vậy đó! Hoa tươi mãi. Anh đồng ý chứ.”

“Rất đồng ý. Khách sạn này cũng thuộc hạng khá.”

Thủy mở to đôi mắt tỏ vẻ ngạc nhiên:

“Khá thôi à? Anh quên là anh đang ở khách sạn hạng sang sao. Khách sạn bốn sao của thành phố này chắc chắn là hơn năm sao ở khắp nơi trên thế giới.”

Ông hơi khó chịu:

“Sao em biết? Em đã xuất ngoại nhiều lần chắc?”

“Chưa, nhưng cần gì. Nghe kể lại, xem sách báo, học hỏi, là thừa biết. Không lẽ phải tự mình đấu sức với voi mới biết voi khỏe! Cứ học, học, học, là biết hết. Người ta khi sắp lìa đời mà cũng còn phải học nữa là! Anh biết ai nói câu đó không”

Ông cười:

“Thưa không, cô giáo ạ! Có lẽ vua Lê Lợi nói thế.”

“Anh nói gì vậy? Lênin chứ.”

“Ngoài Khoa Ngoại Ngữ, cô giáo còn theo học Trường Lý Luận Mác-Lênin chứ gì. Cô giáo giỏi quá. Nhưng còn điều này anh nghĩ rằng anh có thể đúng hơn em. Em bảo rằng mới hai năm mà đã có ba người chết vì rượu? Sai rồi! Có bao giờ người ta chết ngay vì rượu đâu. Họ chết vì em thì có. Cũng như anh vậy, sớm muộn gì anh cũng sẽ chết vì em.”

Thủy chau mày:

“Anh nỡ coi thường em đến thế sao! Anh cho rằng đối với những người khác em cũng… cũng dễ dàng lắm thì phải.”

Ông hơi lúng túng. Thật ra ông vui miệng muốn nói đùa lỡ miệng thôi. Ông đáp lại bằng một giọng chân thành:

“Anh nói sai rồi, xin lỗi em.”

Thủy vẫn còn hờn dỗi:

“Không dám ạ.”

“Vậy thì thưa cô giáo, em đã biết lỗi, xin cô giáo lần này tha lỗi cho em nhờ.”

Thủy bật cười:

“Biết lỗi như thế là đủ rồi, ông học trò của tôi ạ. Ta qua đề tài khác nhé. Trước hết, để em bảo mang đồ ăn sáng… Ô mà đã quá trưa, không ăn sáng nữa, gọi món ăn trưa vậy.”

“Gọi hai phần để em cùng ăn với anh nhé,” ông vồn vã mời.

“Cũng được. Anh muốn dùng thứ gì nào? Thứ gì đây cũng có, xin anh dùng tạm. Rồi nay mai em còn nhiều mục đặc biệt khác cho anh. Anh gặp hên mà anh đâu biết. Khách sạn này sắp tổ chức Lễ Hội Ẩm Thực Hoa Kỳ, An American Food Fare từ 24 tháng 6 đến 7 tháng 7. Anh còn ở đây lâu mà. Đó là một lễ hội ẩm thực nổi bật và hoành tráng nhất trong năm. Em xin phép múa rìu qua mắt thợ, dịch ra tiếng Mỹ anh xem có đúng không: Absolutely the most spectacular food extravaganza of the year. Hãy đến để tận hưởng sự độc đáo của các món ăn hảo hạng trong một khung cảnh đầy tính cách Mỹ. Đừng bỏ qua chuyến thám hiểm tuyệt vời này… tức là Come on over and experience the tastes and sights of America, an adventure not to be missed.”

Thủy nói một thôi không vấp váp. Ông cười ngất. Thúy làm bộ bẽn lẽn:

“Anh chế nhạo em hả? Em nói tiếng Anh có accent? Không đâu, đúng giọng British English đấy, chứ không phải American English như anh đâu. Này anh, đừng cười em nữa, thú thật với anh là em đọc lui đọc tới tờ quảng cáo nhiều lần nên thuộc lòng luôn đấy thôi. Đùa với anh một chốc thế mà đã hơn hai giờ chiều rồi…”

Ông giật mình:

“Đã trễ đến thế à? Chết, anh có việc cần phải làm ngay bây giờ. Thôi, thôi, xin lỗi em, anh không có thì giờ… Để anh ăn uống qua loa gì dọc đường cũng được.”

“Em gọi là sẽ có ngay mà!”

“Nhưng trễ lắm rồi, khỏi phiền em. Muốn đi đến đường Nguyễn Chí Thanh thì phải làm sao? Có xa đây không em?”

Cô phụ tá lắc đầu:

“Ông anh của em đổi ý như chong chóng. Vâng, cũng không gần đâu. Cứ đến Ngã Bẩy hỏi thì biết ngay. Để em gọi tắc xi cho anh đến ngã Bẩy. À mà… anh đi tới đó làm gì vậy?”

Ông buột miệng:

“Đi tìm Thủy.”

“Tìm em? Em đây này!”

Ông nhìn Thủy im lặng, chưa biết phải trả lời như thế nào. Thủy vội tiếp: “Không, em hỏi thật mà. Anh đi tìm ai?”

“Anh đi tìm người quen.”

Thủy cau mày:

“Em đoán già đoán non xem có đúng không nhé. Các ông Việt Kiều lộn xộn lắm, có vợ con đùm đề ở nước ngoài vẫn không quên đèo bòng thêm một vài bồ nhí tại quê nhà chứ gì. Mong rằng anh không thuộc hạng người đó. Nhưng anh tìm ai, cứ nói thật cho em nghe đi!”

Ông trả lời lặng lẽ:

“Anh đi tìm Thủy. Người đó cũng tên Thủy. Nói đúng ra, anh đi tìm đứa con gái của người ta. Còn người ta thì đã chết trên biển rồi.”

Cô phụ tá quản lý hơi khựng người lại, quay đầu nhìn nơi khác. Sau một phút ngập ngừng, cô cười lơ đãng và dịu dàng nói:

“Buổi chiều Sài Gòn tình tứ lắm đấy. Anh đi chơi vui nhé. Chóng về, em chờ. Khi nào có dịp anh kể chuyện cũ cho em nghe.”

Ông đứng ở một góc của khu bùng binh Phan Thanh Giản, Lý Thái Tổ, nay là Điện Biên Phủ, Lý Thái Tổ, nhìn những con đường đầy nghẹt xe và người. Đông nghịt, bụi bặm, dơ bẩn, và hỗn độn. Như ong vỡ tổ. Như đàn thú rừng đang bị đuổi theo sau bởi những con thú mạnh hơn. Như những cảnh trong những khúc phim chạy giặc. Mà cần gì phải phim với ảnh, chạy giặc thì mình đã trải qua nhiều lần rồi, ông nghĩ thầm.

Những ngày cũ bỗng hiện rõ trong tâm trí. Những tin tức về các trận đánh lớn như đang được loan báo. Quảng Trị, Mỹ Chánh, Phố Buồn Hiu, Đại Lộ Kinh Hoàng. Rồi dần dần Huế, Lăng Cô, Hải Vân. Rồi Cheo Reo, Phú Bổn, cảnh chạy giặc kinh hoàng, khiếp đảm khi Quân Đoàn II rút về miền duyên hải. Và những Bình Long, An Lộc, rồi Long Khánh, Xuân Lộc. Và cuối cùng, những cứ điểm án ngữ cho thủ đô Sài Gòn. Vâng, chạy giặc liên miên ở khắp nơi trên đất nước đọa đày này.

Mới ngày nào, thế mà đã hơn một phần tư thế kỷ! Ông bàng hoàng. Ông đi quanh quẩn dòm ngó, mắt hoa lên, mồ hôi tươm ra ướt từ lưng ướt lên vai, ướt đẫm chiếc áo sơ mi vừa mới thay. Đầu tóc của ông cũng dần dần ướt nhèm, mồ hôi trán đổ ra cay mắt.

Thỉnh thoảng ông phải đứng lại gở gọng kính và rút chiếc khăn tay ra lau kính, lau mặt, lau trán, chiếc khăn tay ở một góc có thêu hai cánh hoa hồng thật nhỏ cài lên nhau, một cái màu tím, một cái màu vàng. Thủy vừa tặng ông chiếc khăn tay đó “để anh nhớ mãi”.

Ông nghĩ đến cái khách sạn sang trọng và cô phụ tá quản lý duyên dáng, xinh đẹp, tình tứ. Mình đã đi rong hết cả tuổi thanh xuân, nay đã đến lúc mình nên dừng chân một nơi nào hay chưa, ông tự hỏi. Thấy lòng nguội lạnh. Mọi chuyện đều đã đến với ông quá trễ tràng.

Ông lầm lũi bước. Ông có cảm tưởng bị lạc vào một thành phố lạ. Khu Ngã Bảy này nhiều đường đã mang tên mới. Phan Thanh Giản biến thành Điện Biên Phủ, Lý Thái Tổ thì vẫn cứ Lý Thái Tổ.

Rồi nào là Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú… những tên gọi nghe bỡ ngỡ và chát chúa. Như tiếng búa nện lên đe. Tóe lửa. Giữa búa và đe là gì? Là những miếng nhom, miếng thiếc, thỏi sắt, thỏi chì, méo dần, mỏng dần. Là da thịt máu xương nhầy nhụa. Là những linh hồn vất vưởng. Núi lửa ở đâu phun ra thế, những dòng nham thạch đỏ như máu chảy cuồn cuộn nuốt chửng đồi núi, trang trại, trâu bò, nhà cửa.

Ông đi mệt nhoài vẫn chưa thấy đường Nguyễn Chí Thanh ở đâu. Tên cũ của con đường đó là gì? Minh Mạng chăng? Trần Hoàng Quân chăng? Tên cũ của nhiều con đường khác là gì? Ông quên đi nhiều rồi. Cảnh cũng lạ. Ông đi như đi trong cơn mê. Hay đó là những con đường hoàn toàn mới vừa được phóng ra. Còn những con đường cũ thì vẫn có đó, vẫn nằm ở một nơi nào không chịu cho ông nhìn thấy. Ôi, những con đường lẫn khuất trốn chạy, những doanh trại tàng hình, những người lính già giấu mặt, những thương binh lê la, quằn quại, những nghĩa trang san bằng!

Và bức tượng nữa chứ, bức tượng người lính Cộng Hòa ôm súng ngồi trước nghĩa trang bên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa! Người ta nói nhiều điều về bức tượng đó ngay từ khi ông vừa đến được một trung tâm tỵ nạn ngoài biển đông hơn hai mươi năm về trước.

Những buổi trưa nắng mênh mông có nhiều ma quái lảng vảng, những buổi chiều tranh tối tranh sáng có lắm oan hồn lang thang, những hôm trời mưa dầm dề như than như khóc, bức tượng cô đơn ngồi ôm súng mặt bỗng buồn rầu, mắt bỗng âm u, bỗng từ từ trở mình cúi đầu nhìn vết thương xé lồng ngực, máu rỉ thành dòng. “Kẻ hành nhân qua đó” đau lòng quá, qùy xuống sụp lạy, thì bức tượng liền tan ra thành sương khói. Để lâu lâu lại một mình hiện về chốn cũ loay hoay tìm kiếm chỗ ngồi.

Sao người tạc tượng nhẫn tâm đến thế! Sao không tạc thành hai bức tượng ngồi kề bên nhau, cho có bạn đồng ngũ, khi buồn khi vui có người trò chuyện. Hoặc tạc thật nhiều tượng, cái này đổ nát còn cái khác, cái nọ bị giật sập còn cái kia. Ông nhớ có lần đi Trung Quốc xem hàng trăm bức tượng tạc hình chiến tướng, chiến binh, chiến mã, chiến xa bị chôn vùi xuống lòng đất cùng với một ông hoàng đế nổi tiếng tàn bạo mấy ngàn năm về trước. Ông lẩm bẩm Tần Thủy Hoàng tuy vậy vẫn có một chút tấm lòng với sĩ tốt.

Bỗng ầm ầm sấm sét. Cơn mưa đổ xuống nhanh và nặng hạt. Mặt đường bốc khói mù.

Ông đang rảo bước trên vỉa hè tìm đường tránh mưa thì một xe gắn máy từ xa chạy tới thắng két ngay trước mặt ông, chận ông lại. Người lái xe thò đầu ra khỏi chiếc áo mưa pông-sô trùm kín, nón lưỡi trai rằn ri ướt sũng nước nhỏ thành giọt chảy ròng ròng trên khuôn mặt hốc hác, xương xẩu. Cặp mắt nhìn ông lạnh như tiền:

“Nhảy lên xe ngay. Đi đâu tui chở đi. Lẹ lên!”

Như tiếng ra lệnh. Ừ thì lên, rồi mình bảo xe ôm này chạy đến đường Nguyễn Chí Thanh là xong, ông thầm nghĩ. Ông cúi đầu chui vào tấm áo mưa. Một thân hình mềm mại đã ngồi sẵn dưới tấm áo mưa pông-sô từ bao giờ, lưng đâu lưng với người lái xe. Ông giật mình. Rất nhanh nhẹn, hai cánh tay như hai con rắn quấn lấy ông, hai bàn tay mơn man, mùi nước hoa rẻ tiền xông lên.

Chiếc xe gắn máy chạy lượn qua, lượn về, lảo đảo như say rượu, nhiều lần chực ngã, rồi từ từ chạy êm. Nước mưa trên mặt đường bắn lên làm ướt nhèm đôi giày ông đang mang, chiếc quần ông đang mặc.

Như trong đêm đen, ông không trông thấy gì cả, không thể đoán được bọn người này chạy trên những con đường nào, sẽ đưa ông đi đâu. Lỡ chúng nó dẫn ông vào một “ổ nhện”, hay đưa đến một nơi vắng rồi trấn lột.

Ông chột dạ, la to bảo người lái xe ôm cho ông xuống ngay. Thì một ngón tay nhỏ nhắn đặt nhẹ trên môi của ông, tiếng nói âm thầm rót vào tai ông, yên đi nào, bồ nhà mà, có gì đâu mà ầm ĩ, quê lắm, người ta cười cho. Bỗng người lái xe ôm hét to át cả tiếng mưa rơi:

“Đâu?”

“Đường Nguyễn Chí Thanh,” ông vội đáp.

“Không,” cô gái cướp lời. “Chỗ mọi ngày trên đường Vạn Hạnh.”

Đường Sư Vạn Hạnh? Ông nghe quen quen. Ông vội la lên:

“Nhưng tôi cần đi gấp, tới đường Nguyễn Chí Thanh cho tôi.”

Cô gái đáp ngay:

“Cứ tới Vạn Hạnh trước, rồi Nguyễn Chí Thanh sau. Gần lắm.”

Ông đang lúng túng chưa biết nói gì thì chiếc xe đã từ từ đậu lại. Ông chui ra khỏi chiếc pông-sô, tiếp theo là người con gái.

Cô bé trẻ quá, gầy ốm, vẻ mặt nửa quê nửa tỉnh, không đẹp không xấu, quần áo xốc xếch, nước da trắng bệch, tóc ướt đẫm nước mưa. Nếu ông có con thì cô bé này đáng tuổi con út của ông. Ông nhìn quanh. Ngay bên lề đường là một phòng ngủ cho thuê núp sau cây phượng cành lá sum suê. Cô gái nói một hơi:

“Trả tiền xe đi anh. Hay không trả cũng được, em trả sau. Rồi theo em vô ngay trong kia đi, chớ đứng lớ ngớ ở đây coi chừng người quen anh trông thấy lại bảo anh bắt cóc em thì nguy cho anh đó.”

Ông ngớ người ra, tưởng cô bé đang nói với một người nào khác. Người lái xe ôm nheo mắt nhìn cô gái, chẳng thèm nói với ông một tiếng nào, rú máy cho xe chạy nhanh dưới cơn mưa.

Cô bé anh em ngọt xớt, ông thầm nghĩ. “Anh”, sắp về già, “em”, còn con nít, tuổi chanh cốm. Ô, lại hão huyền, làm gì có chanh có cốm, họa chăng là có mùi thuốc lá, có mùi nước hoa không thơm, có cần sa, ma túy, và có thể có cả hàng tỷ vi trùng bệnh liệt kháng trong người!

Đứng xớ rớ trước cửa một phòng ngủ xập xệ, tồi tàn, bên một cô gái tiều tụy, ông không khỏi liên tưởng đến cái khách sạn sang trọng và cô phụ tá quản lý xinh đẹp trên đường Đồng Khởi. Sự tương phản ngoài sức tưởng tượng của ông. Một thiên đàng, một địa ngục, cách xa nhau không quá vài ba cây số.

Không biết phải bắt đầu câu chuyện như thế nào, ông hỏi đại:

“Cháu tên chi?”

“Cháu cái gì mà cháu! Đi với nhau như vầy mà cháu? Quê xệ. Kêu em không được hả?”

“Thì em… tên chi?”

“Châu Lệ Thường.”

“Tên lạ và hay, như tên Tàu trong phim chưởng. Nhưng trông em Việt Nam chay. Này cháu, này em, cho biết tôi phải trả bao nhiêu tiền xe ôm. Tôi phải đi ngay. Làm ơn chỉ giùm tôi tới đường Nguyễn Chí Thanh.”

“Khoan cái đã nào. Cái anh này làm gì cũng vội! Nhưng anh ranh quỷ lắm, em là Việt Nam chứ Tàu gì mà Tàu. Có được cái tên ấy không phải dễ đâu! Nghe mùi hả?”

Thấy cô bé cố kéo dài câu chuyện, ông vừa buồn cười vừa nổi tính tò mò:

“Mùi mẫn lắm. Mà em nói không phải dễ nghĩa là sao? Phải ghi danh, phải đăng ký, với cơ quan nhà nước mới dùng được cái tên đó?”

“Gì mà ghê vậy! Em tự đặt nó. Nói chơi đó, em mướn ngươì ta đặt tên cho em.”

“Được lắm!”

“Được lắm nghĩa là gì vậy cà? Em được hay cái tên được?”

Thấy cô gái này cũng hay hay, ông gợi chuyện thêm:

“Cả hai đều được. Nhưng em từ vùng nào đến đây?”

“Đoán đi!”

“Anh đoán em gốc ở Cần Thơ hoặc Châu Đốc.”

“Trật lất! Em ở Sài Gòn chớ bộ.”

“Em mấy tuổi?”

“Ủa, hỏi làm chi mà kỹ vậy? Hết tên rồi chỗ ở rồi tuổi! Bộ anh làm nhà báo hả? Hay anh làm công an?”

Ông cũng tự cảm thấy mình ngớ ngẩn. Từ ngày về thăm quê nhà đến giờ, ông bỗng sinh ra cái tật ưa tò mò hỏi han đủ chuyện. Chuyện gì ông cũng muốn thử, muốn nghe, muốn hiểu, muốn biết, muốn nhớ. Sống xa quê hương, nhiều khi ông cảm thấy mình không dính vào đâu cả, mình đi lông bông, mình thiếu một căn cước. Về thăm lại những nơi cũ, ông vẫn không gạt bỏ được tâm trạng đó. Có lúc còn thấy lạc lõng hơn. Cho nên ông cố tìm hiểu mọi chuyện mong muốn rằng từ đó mình có thể tìm thấy được điều mà mình muốn tìm. Điều gì vậy? Ông chưa có một ý niệm rõ ràng.

Cô bé bỗng to tiếng như giận dỗi:

“Đàn ông các anh đều giống nhau. Ông nào gặp tui cũng ưa hỏi han, săn đón, đủ chuyện, rồi quên phứt ngon lành. Đúng là ba xạo. Thôi, theo em vô trỏng ngay, không nên đứng đây lâu.”

“Sợ công an hả?”

“Sợ cái khỉ mốc! Tụi nó đứng hà rầm đầy đường anh không thấy sao?”

“Công an đầy đường? Mặc thường phục? Có sao không em?”

Cô bé cười ngặt nghẽo:

“Lại đến phiên anh sợ công an. Công an nào mà công an! Em muốn nói tụi nó đó. Tụi nó cũng như em đó mà. Toàn là đồng chí cả. Thôi theo em, vô lẹ đi.”

Nói xong, cô bé quay ngoắt người đi trước. Ông bước theo, giữ cô bé lại, hỏi gặn thêm:

“Nhưng làm sao phân biệt cô nào là… là như em, cô nào khác em? Anh muốn hỏi cô nào không phải là, là, đồng chí của em. Theo anh thấy thì ai cũng giống ai cả.”

Cô bé tỏ vẻ sốt ruột:

“Ủa, hỏi làm chi vậy? Lại muốn giở trò kén chọn hả? Bộ em không xứng với anh chắc. Anh già khú đế mà còn muốn chê ỏng chê eo? Đi vô mau mau cha nội. Hết cả ngày giờ của tui rồi. Mà liệu cái thần hồn đó. Anh mà đổi ý là em la làng ngay cho anh biết mặt.”

Giọng nói của cô bé đỏng đảnh, trầm bổng, “làm đày làm láo”, trong khi nét mặt trông thật thà đến ngờ nghệch. Cử chỉ thì trẻ con, cái mặt còn non choẹt, mà cô cứ cố làm ra vẻ sỏi đời khiến cho ông không thể nào nín cười được. Và ông cười thành tiếng.

Cô gái bỗng đấu dịu:

“Anh kiêu ngạo em hả? Thôi, đi vô trỏng cho rồi anh ơi! Em năn nỉ anh mà anh!”

“Không, anh không chọc quê em đâu. Muốn nói gì nữa thì em cứ nói, anh sẵn sàng nghe.”

Quả thật ông thích nghe cô bé này nói. Ông thích nghe cả những câu chửi thề của cô. Biết đâu cô cũng chửi có bài có bản, chửi như tát nước vào mặt, chửi tắt cả bếp lửa, chửi như mất gà không bằng. Ông nhớ lại hồi bé ở quê có bà ở xóm sau bị mất gà ngày nào cũng đi quanh xóm chửi bới từ chiều đến tối. Cứ thế liên tiếp năm ngày thì con gà không biết từ đâu lù lù chạy về.

Nhưng không lẽ cứ giữ cô bé đứng đây nói chuyện mãi, ông buồn rầu bảo:

“Chú đưa… à anh đưa em vài trăm ngàn nhé! Em trả cho anh xe ôm bao nhiêu thì trả. Số còn lại em cất đi! Anh thương em lắm. Anh nói thiệt. Nhưng anh có công chuyện phải đi ngay, không vô trỏng được đâu. Em chỉ cho anh tới đường Nguyễn Chí Thanh đi!”

Ông rút từ trong ví bốn tờ giấy 50.000 đồng. Cô gái giật mình, quay nhìn ông đăm đăm:

“Đường Nguyễn Chí Thanh hả? Thì cũng gần đây. Té ra anh. Anh cố ăn mặc lùi xùi để đánh lừa em, nhưng em đã nghi rồi. Thế mà em lụt qúa! Trời ơi là trời! Đã nghi mà không chịu nghi thêm một chút nữa. Nhưng cũng còn may. Anh Việt kiều có đúng không?”

Ông im lặng nhìn cô gái, ngượng nghịu, áy náy, có cảm tưởng như mình là kẻ ăn vụng vừa bị phát giác.

Bỗng cô gái cúi mặt xuống nhìn bàn chân hơi thô mang giép Nhật đang dí xuống vũng nước đọng trên lề đường, mặt buồn thiu, rồi rơm rớm nước mắt, rồi khóc oà. Cô khóc thiệt, hai bàn tay úp vào mặt, thổn thức rung cả người. Mấy người bộ hành đang đứng núp mưa dưới mái hiên trố mắt nhìn ông. Ông lọng cọng không biết xử trí như thế nào. Cô khóc tấm tức một chốc, kéo vạt áo bà ba lau nước mắt, rồi cầm tay ông kéo ông đến cạnh sạp báo cũ để trống có mái che, nói thì thầm bên tai ông:

“Chú ơi, chú có biết là cháu khổ lắm không? Đúng như chú nói, cháu có phải là dân ở đây đâu. Cháu ở dưới quê, gần bắc Mỹ Thuận, à mà nay đã có cầu mới …”

“Vâng, trông cháu thiệt thà, chú đã đoán biết.”

“Cháu xin ba má đi theo mấy con bạn lên đây định làm ăn kiếm tiền rồi lại quay trở về. Cứ tưởng như thế là hay, ngờ đâu. Bây giờ cháu làm sao về được. Nhưng thế nào cháu cũng phải kiếm cho ra nhiều tiền rồi về với tía, với má. Nhiều khi cháu nhớ hai ông bà già muốn chết. Tía má cháu cỡ tuổi chú. Về quê thì lại không có việc làm, đi làm rẩy bậy bạ, cũng… cũng xệ lắm, cũng chán lắm chú ơi. Nhưng được cái là sớm hôm ở cạnh má, cạnh tía.”

Ông vỗ nhẹ vào vai cô bé, tìm lời an uỉ. Không biết nói thế nào cho phải, ông nói như con vẹt:

“Cháu còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn. Nhưng bây giờ chịu khó về quê đi. Đó là giải pháp hay nhất!”

Cô bé duờng như không biết ông nói gì, tiếp tục kể lễ:

“Tội nghiệp ông bà già cứ tưởng cháu đang làm thợ dệt cho công ty Đài Loan, đường Nơ Trang Long ở Bình Thạnh. Ngày nào cháu cũng mua vé số, cũng đánh đề, mà trời chưa chịu ngó tới cháu. Cháu thề có trời đất lần này là lần thứ nhất… a, thứ hai… vì trời mưa, cháu quá giang cái thằng chết dịch đó… thì gặp chú. Chú cũng… vậy, phải không? Chú mới đi cái kiểu này lần đầu chắc, thấy chú đang còn thiếu kinh nghiệm. Chớ cháu có phải là thứ đồ bê bối đâu.”

Ông mò tay vào túi quần sau móc thêm được một ít tiền Việt Nam. Tiền đô la thì ông đã lận kỹ vào trong một cái nịt ny lông có mấy ngăn, quấn quanh bụng, bên trong cái áo lót.

“Không chú ơi. Cháu không muốn lấy tiền của chú đâu. Cháu còn muốn trả lại bốn tờ này nữa đó. Để cháu đưa chú tới đường, đường gì,… Nguyễn Chí Thanh phải không. À mà chú tới đó làm chi vậy?”

“Chú tìm người ta.”

“Ai?”

“Nói ra cháu cũng không biết đâu. Mà người ta không còn nữa.”

Cô gái bật cười, vẻ mặt rạng rỡ :

“Chú nói nghe ngộ quá! Không còn ở đó nữa thì tới đó làm chi cho mất công. Thôi, chú ơi… chú đi theo em đi. Mình kiếm cách hùn hạp… Chú có của, em có…”

Ông cảm thấy vui, cười âm thầm trong lòng. Hình như lâu lắm ông mới cười thật tình, nói đùa:

“Anh em mình hùn hạp mở công ty sản xuất áo mưa pông-sô coi bộ hái ra tiền. Em định như thế chứ gì?”

“Anh đừng kiêu ngạo em nữa. Anh có của, còn em cũng quen… biết nhiều nhiều…”

Ông đỡ lời:

“Được rồi. Chuyện đó sẽ tính sau. Nhưng bây giờ anh phải tới đó tìm đứa con gái của người ta. Người ta không còn nữa, người ta chết rồi. May mà đứa con gái thì còn sống. Nghe nói nó ở đảo trở về lại Việt Nam được mấy năm.”

“Anh có địa chỉ không?”

“Có. Nhưng em chỉ cho anh tới đường Nguyễn chí Thanh là được rồi, đừng đi theo anh làm chi, bất tiện lắm. Em thông cảm nhé. Nếu đường gần, anh đi bộ cũng được chứ gì, chớ không rúc vô chiếc áo mưa pông- sô nào nữa đâu. Đây, thêm một ít tiền đây, em cầm lấy! Mai mốt anh đưa thêm nữa.”

“Thiệt hả anh? Nhưng anh biết em ở đâu mà cho tiền? Ô mà em không lấy tiền của anh đâu. Miễn gặp anh là tốt rồi. Tự nhiên em thấy, có trời có đất làm chứng, em, em thấy thương anh ghê.”

Ông trả lời một cách thành thật:

“Chắc chắn anh sẽ tìm gặp em. Bây giờ anh phải đi gấp, cho anh địa chỉ của em đi. Rồi chỉ đường Nguyễn Chí Thanh cho anh.”

Cô gái nhìn ông ngần ngừ một chốc, xong mỉm cười quay đầu chạy nhanh vào phòng ngủ kiếm mảnh giấy và cây bút chì mang ra hí hoáy viết.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Ngự Thuyết

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)