Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

lưu đày và quê nhà (kỳ 1)

0 bình luận ♦ 10.12.2024

At the airport

Việc nhà đã tạm thong dong

Tinh kỳ giục giã đã mong độ về…

Nguyễn Du (Truyện Kiều)

I

Một sáng Chủ Nhật tại một góc phòng của một quán cà phê đông khách, chủ nhân là người Việt Nam, nằm ngay trung tâm của “thủ đô tỵ nạn”. Hai người bạn của ông Khê và ông chiếm ba chiếc ghế, ngồi quanh một cái bàn tròn, còn lại một ghế trống. Họ sàn sàn tuổi nhau, nói chuyện với nhau có vẻ tâm đắc. Họ đang chờ các món điểm tâm.

Ông Khê gọi một ly cà phê đen và bánh ngọt, hai bạn của ông một người gọi cà phê sữa, bánh croissant, người kia gọi đĩa trứng gà au plat, bánh mì tây và một ly nước chanh vắt. Trong khi chờ các món ăn dọn lên, một trong hai người bạn đưa ý kiến:

“Thuốc lá nhé!”

Người kia đáp:

“Cũng tốt thôi. Nhưng ở đây hút được không.”

Ông Khê góp ý:

“Không thấy bảng cấm là mình có quyền hút. Ô, mà xem kìa, ở quầy thấy có bày thuốc lá, tức là được hút.”

Ông đứng dậy đến quầy hàng lấy một bao thuốc lá và một bao diêm quẹt.

Họ đã bỏ thuốc lá từ lâu, nhưng thỉnh thoảng kéo nhau vào tiệm gặp nơi nào không cấm hút thuốc, họ lại cùng nhau nhâm nhi vài điếu gọi là để nhớ lại thời trẻ. Họ căn dặn nhau hút “chợt chạt ngoài môi” chứ không ém khói, nuốt khói; “hít mà không hút”, như một câu tuyên bố để đời của một vị tổng thống được nhắc đi nhắc lại trên truyền thanh, truyền hình, báo chí vài năm về trước. Họ cho rằng làm như thế sẽ không bị ghiền trở lại mà lại được thưởng thức cái thú phì phà khói ngày xưa khi còn ở Việt Nam.

Hồi đó, sáng chủ nhật nào họ cũng hẹn nhau đến La Pagode trên đường Tự Do ngồi “đấu láo” cho đến trưa. Tại quán “Cái Chùa” ấy, họ chỉ ăn uống qua loa. Cà phê, thuốc lá là chính, hút hết điếu này đến điếu khác, thường là thuốc lá nội hiệu Bastos xanh, thỉnh thoảng Mélia vàng, hoặc Camel, Lucky Strike của Mỹ. Còn Salem hoặc Kent họ thấy nhẹ quá, để cho đàn bà hút thì tốt hơn.

Qua làn khói, họ tha hồ ngắm con đường Tự Do rộn rịp, ngắm thiếu nữ Sài Gòn chưng diện đủ thứ y phục thời trang. Chiếc áo dài hết dài gần chấm gót lại thụt ngắn lên gần đến đầu gối; cổ cao, rồi cổ thấp, cổ kín, rồi cổ rồi hở, mà đã hở càng ngày càng hở nhiều; bên sườn thì nơi hai tà áo giáp với thắt lưng để lộ càng ngày càng lớn ra khu tam giác của cái hông; chiếc quần trắng càng ngày càng mỏng in rõ chiếc quần lót bên trong càng ngày càng nhỏ. Trong khi đó lối ăn mặc đồ đầm cũng rất thịnh hành trong giới trẻ, những chiếc mini jupes càng lúc càng bị những cặp đùi tròn giành sân lấn đất.

Họ thích La Pagode nơi đó họ có thể ngồi ì “rửa mắt” trong bao lâu cũng được, không bao giờ bị chủ quán cho người đến hỏi han quấy rầy. Lại thỉnh thoảng có dịp nghe lóm, chiêm ngưỡng các nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, nhà ca, cũng thường tụ tập nơi đó chuyện trò.

Mấy mươi năm lưu lạc, cuối cùng tình cờ gặp lại nhau tại miền Nam Cali này, họ vui mừng vô hạn. Họ ít khi thăm viếng nhau tại nhà, có gì cần, gọi nhau bằng điện thoại. Họ đặt ra một thông lệ là cứ mỗi sáng chủ nhật kéo nhau tới một quán ăn nào đó để hàn huyên, ăn uống là chuyện phụ. Chuyện của họ thường là những kỷ niệm cũ. Hiếm khi họ nói với nhau về những dự định cho tương lai, và không bao giờ hỏi han nhau về lương tiền, về công việc làm ăn. Còn hiện tại? Toàn là chuyện tầm phào để giết thì giờ, những tin tức thời sự, thể thao, giải trí, hoặc bàn bạc xem có thể cùng nhau đi xa khi có kỳ nghỉ cuối tuần dài, hoặc trong những kỳ nghỉ phép hàng năm. Sở thích của họ có khác nhau, nhưng cả ba người đều mê du lịch.

Sáng hôm đó, câu chuyện của họ đưa đẩy đến một vấn đề nóng bỏng: về thăm quê hương, về Việt Nam. Ông Khê cũng đang băn khoăn về vấn đề này. Ông chưa có một quyết định nào rõ rệt, nên chỉ ngồi yên nghe hai người bạn thảo luận sôi nổi.

Cũng như một số người Việt Nam ta, nói là thảo luận nhưng thật ra họ cãi cọ nhau, ai cũng chỉ muốn giữ riêng ý của mình. Họ muốn nói hơn là nghe. Họ muốn độc thoại hơn là trao đổi. Phải chi trời sinh con người có một lỗ tai, hai cái mồm thì thuận hơn, ông Khê ngẫm nghĩ. Ngược lại, các giống như chó, mèo, trâu, bò, voi, cọp chẳng hạn, nói năng không bao nhiêu, một cái miệng là đủ, và hai lỗ tai để nghe ngóng, đề phòng, cảnh giác.

Một người bạn hùng hồn:

“Mình đã đi nhiều nơi, sao không thử về Việt Nam một chuyến. Hồi còn bên đó, đánh nhau liên miên, có nhiều nơi tôi muốn thăm cho biết mà không thể tới. Với lại thiên hạ đang về hà rầm làm mình sốt ruột. Lúc này về dễ lắm. Chính quyền bên đó không biết có ý đồ gì nhưng tuyệt nhiên không hề làm khó dễ ai cả. Thế thì mình cũng nên sắp đặt xin nghỉ phép cùng một lúc để cùng đi với nhau cho vui nhé!”

“A, ông bạn tôi ơi! Sao anh bộp chộp thế!”

“Cái gì mà bộp chộp. Tôi nói có bằng chứng đàng hoàng. Thằng Tâm trước kia làm ở Phòng Nhì, thằng Trung mang lon đại tá, thằng Cảnh ở bên này viết báo đả kích lu bù mà cũng…”

“Thì mặc xác tụi nó. Mình khác.”

“Tại sao lại khác?”

“Cậu vô tâm lắm. Đã từng đem cả mạng sống tìm mọi cách trốn cho thoát khỏi cái ách cộng sản, may mà không bỏ thân trên biển cả, nay lại vác mặt mo trở về!”

“Có gì đâu mà ầm ĩ thế. Về thăm vài ba tuần rồi lại đi. Mình có ở luôn bên đó đâu mà sợ…”

“Vấn đề không phải là sợ hay không sợ, mà là lòng tự trọng, thủy chung, có trước có sau. Trước kia tụi nó bảo bọn mình là đồ phản quốc, lưu manh, đĩ điếm, chạy trốn chui, trốn nhủi theo chân chân đế quốc Mỹ. Nay nó gọi bọn mình là Việt kiều yêu nước, là khúc ruột ngoài ngàn dặm, là bộ phận không thể thiếu trong lòng mẹ Việt Nam. Nghe mùi mẫn quá. Có đứa còn gọi biến cố tháng tư 75 là bước ngoặt vĩ đại đánh dấu cho cuộc viễn du của trên hai triệu người, là cuộc viễn hành lớn lao nhất trong lịch sử giống nòi! Nghe như mật rót vào tai! Nhưng phải biết đâu là thực, đâu là bịp, ai là thù, ai là bạn.”

“Thì mình có về để thỏa hiệp hay cộng tác với ai đâu mà bảo là thù với bạn! Về chơi tung hê, thoả thuê một thời gian ngắn. Thế thôi.”

“Thế thôi! Nói nghe gọn bâng! Những người nhổ bãi nước miếng xuống đất rồi thè lưỡi ra liếm lại mà không biệt gớm thì có khác gì… khác gì súc vật! Về! Về! Về để cúi gầm cái đầu trước bọn gian manh đó hả?”

“Này, bạn bè cũng phải giữ mồm giữ miệng chứ. Cậu bảo ai là súc vật? Thế cậu mới là người hả? Cái thứ đầu óc chật hẹp, chó má!”

“Đồ vô liêm sỉ!”

Để đáp lại, anh bạn kia vồ lấy chiếc ghế trống đưa lên. Vài người ngồi ở bàn bên cạnh xô ghế đứng giạt ra, ông chồm tới đưa tay cản lại.

Rồi ba người lại ngồi xuống im lặng một hồi lâu. Bỗng một người đứng dậy đòi về. Ông vội đứng dậy vui vẻ ấn nhẹ vai anh ấy xuống. Thế là cả ba lại cố vui vẻ trở lại. Câu chuyện chuyển qua đề tài khác, không hào hứng cho lắm. Họ đăm chiêu lấy lệ một chốc, rồi cười cười, nói nói, như không có việc gì xẩy ra cả. Tiếng nói của họ lại hòa lẫn vào tiếng rì rầm không dứt của quán cà phê một buổi sáng đông khách.

Còn với ông thì sao? Về? Tại sao lại về? Những câu hỏi đó đã đến với ông cách đây một vài năm. Gần đây, ông càng nghĩ nhiều đến điều đó. Về để thăm quê hương chứ! Vậy sao?

Có khi đang lái xe hàng giờ trên xa lộ tai mải nghe nhạc, mắt mải nhìn con đường bất tận trước mặt; có khi ngồi bên cửa sổ lầu 20, 30 của một khách sạn tại một thành phố lạ buổi chiều nhìn xuống những dòng xe nhỏ li ti như những đàn kiến bò ngược bò xuôi; có khi đứng trước bãi biển xem người ta nằm sấp, nằm ngửa trên những tấm trải nhỏ, dưới những chiếc dù lớn, phô những cặp đùi dài; có khi rảo bước trên hè phố tấp nập của một thị trấn xa xôi mới đến lần đầu; có khi nửa khuya giật mình tỉnh dậy vì tiếng còi hụ chát chúa; có khi nằm trằn trọc mãi trên giường cố ép giấc ngủ… bỗng một hình ảnh, một âm thanh, một mùi hương, một màu sắc, không đâu vào đâu, tưởng đã mất hẳn trong ký ức, lại hiện về thật bất ngờ, lẫn lộn, không theo một thứ tự nào cả — con chó già bị đâm què một chân của o dượng, lông vàng, đuôi cong ngược uể oải đi lui đi tới trong cái sân lát gạch, buổi trưa nắng, tìm chỗ nằm nghỉ, trước khi nằm xuống, đưa mũi ngửi, rồi quay người quanh quanh hai ba vòng; chiếc xe lăn vành rỉ sét nằm ở cuối hành lang gần bãi đáp trực thăng trong một quân y viện miền cao nguyên khi chưa bị thất thủ; con chim chèo bẻo nhỏ bay xẹt qua xẹt về tấn công con quạ to gấp đôi, mấy chiếc lông đen của con quạ bị bứt ra bay bay trong gió; tiếng hò ru em của chị người làm át tiếng khóc của đứa bé, tiếng khóc càng to tiếng hò càng lớn theo nhịp tao nôi đưa nhanh; đôi mắt dài của Thủy, mắt phượng mày ngài, ám ảnh suốt đời, liếc nhìn ly rượu trên tay sóng sánh trong ánh đèn màu một đêm Đại Nhạc Hội; một thôn nhỏ xa xôi, êm đềm nép bên dòng Cửu Long tranh mọc tràn trề, xanh mướt; những lũy tre vang dội tiếng chim vào mùa hè, quằn quại trong mưa gió mùa đông; mùi tóc cháy khét của thằng em họ sau một ngày đi câu cá rô, cá ngạnh dưới xóm Rột trong một kỳ nghỉ hè; mùi đất bùn trộn phân trâu và rơm băm nhỏ trét vào phên tre những ngày tản cư bên làng ngoại bên sông Bồ; mái tóc đẹp, nửa vầng trán, cặp lông mày tỉa thật tự nhiên, thật khéo, và con mắt đen lay láy nhìn bạo dạn như đã thân thiết nhau từ bao giờ, thỉnh thoảng in lên trên kính chiếu hậu khi có ánh đèn chiếu vào chiếc xe ban đêm chạy qua mấy khu phố tối tăm, có vài quán rượu còn mở cửa, tiếng cười nói bên trong vang ra; lớp bụi đỏ trên con đường đất đá mới mở bay mù mịt bám lên mái tóc của chàng và bàn chân của nàng mang đôi giày quai mảnh như sợi tơ lúc chàng loay hoay cúi sát đầu xuống sàn xe tìm chiếc lược nàng đánh rơi; những con đường đầy xác pháo đỏ đưa đến các ngôi chùa đèn nhang nghi ngút, thơm tho vào dịp Tết; và còn nhiều nữa nói sao cho hết, nhưng cũng phải nói thêm vài lời về dòng sông xanh ấy, dòng sông mà nước của nó là những hạt ngọc tan thành lệ như một nhà thơ đã mơ mộng ví von.

Và cũng có rất nhiều khi, trong một thời gian dài, hàng tháng, hàng năm, ông quên tất cả. Ông quên cả ông, nói gì đến ông quê hương, đất nước.

Ông thích bạn. Cũng như những người sống lưu vong khác, ông giao du với nhiều nhóm bạn khác nhau — bạn thời thơ ấu, thời trung học, thời đại học, bạn chiến đấu ngày xưa, bạn cùng sở bây giờ, bạn cà phê, bạn đi xe đạp thể dục, bạn đi du lịch v.v… Người nào ông cũng mến, nhưng bảo là bạn thân, ông chỉ có mấy người.

Có những người bạn luôn luôn nhớ nước, thương nòi, và họ khuyên ông đừng về. Hay nói cho đúng hơn, đừng về trong giai đoạn này. Họ tham gia vào những hội đoàn đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền cho đất nước. Họ tâm nguyện sẽ quang phục quê hương, bằng cách này hay cách khác, kể cả bằng vũ lực như trong những năm đầu tiên sống lưu vong. Khi nào thành công, họ mới tính chuyện về, cũng không muộn.

Họ bảo ông là người chủ bại, tiêu cực. Nhưng vẫn còn may cho ông, họ xem ông thuộc “phe ta” và đối xử tử tế, trong khi họ tấn công dữ dội những người khác lơ mơ như ông.

Ông biết điều đó và vì thế họ cũng được ông qúy mến. Ừ thì mình chẳng làm nên tích sự gì thì hãy để người khác lo toan. Nếu mọi người đều như mình, mọi chuyện trên đời này sẽ không khá lên được. Ích kỷ và vô trách nhiệm! Nhiều khi ông tự đánh giá mình như thế. Biết vậy nhưng ông không thay đổi, hay nói cho đúng hơn, ông đa nghi, ông muốn giữ cái thái độ “chờ xem”. Cuộc sống lưu vong này, ông tự nhủ, sao rối rắm quá, không biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là phải, đâu là trái.

Cho nên, về hay không? Ông đi đã lâu, hơn một phần tư thế kỷ. Khi bỏ nước ra đi ông nghĩ rằng mình sẽ sống lưu vong cho đến hết quãng đời còn lại, “Sống nhờ đất khách, chết chôn quê người”, không bao giờ trở về, và cũng không bao giờ có ý nghĩ rằng chánh quyền trong nước sẽ mở rộng cửa để “kẻ thù cũ” có thể dễ dàng trở về như bây giờ.

Ông đã có một cuộc sống khá ổn định ở xứ người, ít nhất về phương diện vật chất. Ông thích đi đây đó, ông thích du lịch, mỗi năm ông đều có một chuyến đi xa trong nước Mỹ mênh mông này, hoặc đi đến nhiều nước khác. Như thế đã đủ thỏa mãn được cái máu “giang hồ vặt” hay chưa, hay là còn phải trở về quê mới hả dạ? Mà về quê thì đâu có thể gọi là “giang hồ vặt” được, ông ngẫm nghĩ.

Vậy thì về vì lý do gì? Lý do tình cảm gia đình, bạn bè? Là con một, không có anh em, chị em, cha mẹ đều qua đời, ông chỉ còn vài người bà con xa. Bạn bè thì, cũng như ông, kẻ trước người sau, đều đã ra đi, hoặc đã chết, hoặc hiện đang sống tại nhiều nơi trên thế giới mà thỉnh thoảng ông tình cờ gặp, hoặc tìm thăm viếng nhau. Thế thì có cần phải về hay không?

Có lẽ cũng nên về đại một chuyến biết đâu từ đó có những câu trả lời cho những câu hỏi lâu nay vẫn làm ông bận tâm. Và cũng còn một chút vướng bận khác, về để gặp mặt đứa con gái của Thủy hiện sống tại Sài Gòn mà ông vừa biết được tin tức. Đứa con gái tên Thi. Vâng, thì cứ về để tìm thăm đứa con gái của Thủy là cũng đã bõ công rồi. Chỉ có vậy thôi sao, hay còn lý do thầm kín khác mà ông không muốn thổ lộ với ai, lý do mà ông luôn luôn ấp ủ trong lòng — nhớ quê hương.

Lại nữa — đúng, tụi bạn bảo ông là người “lừng khừng, lạng quạng” thật không sai chút nào — lại nữa, về thì có khác gì một tên bại trận về đầu thú mong được kẻ địch ngày xưa làm ngơ? Mà liệu chúng nó có làm ngơ hay không, hay trong thâm tâm vẫn chất chứa hận thù, có dịp là tìm cách rửa hận? Nếu thế thì chính mình tự nguyện về để chui vào rọ đã đặt sẵn! Sự việc có thể sẽ xẩy ra như thế chứ, nghĩa là sẽ bị bắt nhốt bất cứ lúc nào. Mà cũng có thể khác. Không có gì rõ ràng, thế mới phiền, ông lầm bầm.

Ông nhớ một lần đến thăm một người bạn tình cờ gặp lúc anh ta tổ chức họp mặt ăn tất niên. Bạn ông, là một nhà văn có tiếng, mời ông ngồi lại chơi — dù sao… dù sao anh và tôi cũng là bạn bè với nhau lâu ngày, còn đối với những người kia thì dù sao cũng là người “đồng hương đồng khói”, đầu lạ sau quen. Anh cứ tự nhiên ngồi lại nhé.

Ông ghét hai chữ “dù sao” mà nhà văn đó cũng như những người bạn thân của ông thường đem ra dùng với ông. Tại sao lại “dù sao”? Miễn cưỡng tiếp tôi à? Tôi là người bất xứng à?

Dường như đa số những người quen biết ông đều “tội nghiệp” cho ông hơn là quý trọng ông. Đã muốn bỏ đi, nhưng nghĩ đến buổi chiều cuối năm quá dài không biết đi đâu, không biết làm gì để lấp cho kín thời gian trống rỗng đó, ông đành ngồi lại, tự nhủ “dù sao” mình cũng đã lỡ đến đây thì không nên bỏ đi, mất lịch sự. Ngồi lại “dựa cột mà nghe”, đừng mở miệng, là yên chí lớn. Các nhà văn, nhà thơ họ thâm lắm, họ hay nói khó lắm, mình góp ý “ba xàm ba láp” không khéo lại trật đường rầy, làm trò cười cho thiên hạ, ông tự căn dặn.

Hôm đó có mặt một nhà thơ “phản kháng” từ trong nước. Được biết nhà thơ ấy được Mỹ mời qua “tham quan”. Mỹ mời, nghe cũng oai đấy chứ. Nhưng Tổng thống Mỹ mời, hay quốc hội Mỹ mời? Hay một viện Đại Học mời qua lá thư của ông Viện Trưởng? Hay một ông Khoa Trưởng Khoa Nhân Văn chẳng hạn mời? Sau mới biết một chi nhánh nhỏ thuộc một trong những tổ chức Cựu Chiến Binh Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam mời thi sĩ qua tham dự buổi thuyết trình về một đề tài nghe quen quen: Hội Chứng Việt Nam Hậu Chiến Tranh.

Ông thi sĩ đó — trên danh thiếp ông ấy có ghi rõ, “nghề nghiệp: thi sĩ”. Nghe cũng lạ lạ. Hình như các nhà văn, nhà thơ hải ngoại không có thói quen ấy. Cũng phải thôi, những người viết ở hải ngoại đều có nghề riêng để kiếm sống trên xứ lạ quê người. Viết lách là chuyện riêng, chuyện khác.

Nhà thơ đó dành một chút thì giờ ghé thăm những bạn văn thuộc xu hướng “Chống Cộng Một Cách Ôn Hòa”.

Trong lúc vui câu chuyện, nhà thơ tâm sự rằng ông rất ngạc nhiên thấy người miền Nam, nhất là giới cựu quân nhân, thù dai lắm, “chứ không như chúng tôi. Chúng tôi đã quên ngay hết mọi chuyện lấn cấn cũ, tâm trí lâng lâng, thảnh thơi, để lo cho ngày mai của đất nước.”

Thật là thơ mộng! Thi sĩ này đã “xử lý” vấn đề một cách thật đôn hậu, đơn giản, trong sáng, nếu quả thật trong thâm tâm ông ấy nghĩ như thế. Nói chuyện chính trị mà như nói chuyện riêng tư giữa cá nhân với cá nhân.

Nhưng nghĩ cho cùng, có lẽ ông thi sĩ này nói đúng, ông ngẫm nghĩ. Chiếm đất của người ta, chiếm nhà của người ta, cho người ta vào tù, vào rọ, đẩy người ta đi tới cái gọi là “kinh tế mới”, là những nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối, người thì cạp đất, không, làm gì có đất để mà cạp, toàn là sỏi và đá trồng trọt gì nổi, hất người ta văng ra ngoài biển, có khi “quá đà” chiếm luôn cả vợ người ta nữa, không lẽ bây giờ lại bày đặt căm thù người ta. Không lẽ vừa hiếp dâm vừa la làng! Chí Phèo phần nào thôi chứ! Nếu cần phải căm thù thì nạn nhân mới là kẻ ở cái tư thế đó chứ!

Tuy thế, cũng có trường hợp thủ phạm có thể “giả vờ căm thù một cách thành thật” và tưởng tượng ra những tội lỗi “trời không dung, đất không tha” của nạn nhân, có thế mới nuốt mau trôi những gì chiếm được. Và từ đó một vấn đề khác nữa nẩy sinh — người về phải luôn luôn đề cao cảnh giác rằng mình là người có tội, luật pháp có thể tung ra những mẻ lưới chụp lấy mình bất cứ lúc nào.

Ôi dào, có gì đâu mà rắc rối thế, có người vẫn nói với ông như vậy. Người ta vẫn về ào ào có sao đâu. Hơn nữa cậu có dính dáng gì đến “chính chị, chính em” đâu, khỏi lo. Muốn dễ là mọi chuyện biến thành dễ, muốn khó là nó khó ngay. Câu nói đó làm cho ông không yên tâm chút nào. Dù sao, lại dù sao, lỡ có gặp khó khăn, cứ chìa tiền ra, nhiều nhiều một chút, là mở được mọi thứ chìa khóa kiên cố nhất, kể cả chìa khóa nhà giam. Người ta đồn đãi như vậy. Trong tâm trạng rối rắm đó, cuối cùng ông quyết định về.

Hơn hai mươi lăm năm sống ở nước ngoài, ông Khê bây giờ đã là một người đàn ông đứng tuổi, từng trãi, mệt mỏi, và vẫn tiếp tục cuộc sống độc thân. Ông về thăm quê hương lần này trước sự bất bình của mấy người bạn thân. Nhưng rồi họ cũng cho ông vài lời khuyên, chẳng hạn phải mua vé theo đoàn du lịch để được đi nhiều nơi và nhất là được an toàn, chẳng hạn đừng đi đâu một mình, chẳng hạn đừng bao giờ để lộ ra rằng mình là Việt kiều, sợ bị tính tiền theo giá cắt cổ, sợ bị trấn lột, chẳng hạn đừng bao giờ đề cập chuyện chính trị dù với người thân nhất. Tai vách, mạch dừng. Vân vân và vân vân.

Nhưng ông nghĩ khác. Ngoài chuyện chính trị mà ông sẽ không dính dáng tới, ông biết đụng vào điều húy kỵ này là dễ bị chụp nhiều cái mũ lên đầu cùng một lúc, ông muốn xông pha, dạn dày nếu cần. Ông có nghe nói đến cái lối du lịch của “Tây ba lô”. Đó là những thanh niên nam nữ người nước ngoài đam mê du lịch, họ nằm đường nằm chợ qua đêm nếu không tìm được khách sạn, họ ăn uống đơn sơ, tùy nghi, nếu phải vào tiệm ăn, họ đòi được tính tiền các món ăn theo bảng giá, mua hàng không có bảng giá thì họ lại kỳ kèo mặc cả, tóm lại họ tính toán rất kỹ miễn sao có thể để dành tiền để được đi nhiều nơi, biết nhiều chuyện, và không bị lừa.

Ông tiếc là ông không còn trẻ để làm như họ. Cuối cùng ông quyết định không đi theo “tua”, chỉ đi một mình để muốn làm gì thì làm, muốn ghé đâu thì ghé, khỏi phải lệ thuộc người nào khác. Và ông sẽ ghé thăm Hà Nội trước. Ông tính rằng sẽ ghé miền Bắc, qua miền Trung, vào miền Nam. Và từ đó, giã từ Việt Nam.

Sau gần 20 giờ bay, phi cơ đáp xuống phi trường Nội Bài, Hà Nội.

Hà Nội! Cái tên đã gây nhiều ấn tượng mạnh trong lòng ông từ lâu, từ hồi nhỏ của những năm thời trung học, từ hồi mới vào đời của những năm chiến tranh tàn khốc. Hà Nội, ông đã nghe nói đến nhiều, đọc nhiều, mà chưa hề nhìn thấy tận mắt. Và bây giờ Hà Nội đang nằm ngay trước mắt.

Hà Nội mùa hè. Nắng đổ lửa! Mồ hôi thấm ướt chiếc aó lót, thấm lan ra chiếc áo sơ mi mỏng dán sát vào người, ông như đang ở trong phòng tắm hơi. Ông lấy làm lạ rằng thời tiết miền Bắc lại oi bức đến thế. Miền Bắc với vĩ độ cao hơn lẽ ra phải lạnh hơn, mát hơn miền Trung hoặc miền Nam mà ông biết nhiều. Hay là năm nay thời tiết bỗng dưng thay đổi đột ngột, cả nước Việt Nam biến thành cái lò lửa? Và Huế, và Sài Gòn hẳn còn nóng dữ dội gấp mấy? Ông nói lên cái ý nghĩ đó với người tài xế kiêm hướng dẫn. Anh ta nhún vai:

“Việt kiều người nào cũng bảo thời tiết bên này thay đổi. Đông lạnh, hè nóng, năm nào mà chả thế.”

Thế à, thiên nhiên vẫn thế, chỉ có mình khác thôi! Xa quê hương lâu ngày, đã quen với tuyết và giá, nay đâm ra xa lạ với mùa hè nhiệt đới chăng. Nhưng ông cũng ngạc nhiên nhận thấy rằng tiết trời như thế mà vùng Hồ Gươm, Chùa Một Cột, Gò Đống Đa, cây lá vẫn um tùm, tươi tốt, những lớp màu xanh nhiều cung bậc chồng lên nhau, làm nền cho nhau, trùng trùng điệp điệp. Xanh tươi như mùa xuân tại nơi ông sinh sống.

Một cơn gió thổi tới, những ngọn cây xao động, ông thảng thốt. Bỗng dưng mấy câu thơ cổ hiện lên trong trí nhớ: Quốc phá sơn hà tại/ Thành xuân thảo mộc thâm. Vâng, nước mất núi sông vẫn còn đó, xuân về cây cỏ vẫn mọc đầy! Mà con người thì già đi, bớt vui đi nhiều, và mất mát càng nhiều hơn nữa.

Nổi bật lên trên những màu xanh đó, như những nụ hôn của thời còn trẻ, của tuổi học trò những mùa hè sắp biệt ly, hành lang lớp học thưa dần tiếng guốc con gái, bớt dần tiếng cười nói tíu tít, vắng dần những tà áo trắng ôm lấy những thân hình yểu điệu, và những mái tóc đen và dài, là những chiếc môi hồng đang hé nụ trong nắng chói chang nhuộm đỏ sân trường, là hoa phượng vùng Gò Đống Đa, Hồ Gươm. Suốt mấy mươi năm nay ông mới gặp lại hoa phượng giữa mùa hè Hà Nội xa lạ, mà cứ tưởng là mình đang về một nơi nào quen thuộc lắm, một làng quê xưa, một góc phố cũ gần Đại Nội, một con đường dệt hoa nắng lốm đốm có hai hàng cây trùm lên thành vòm.

Bỗng tiếng ve rộ lên từ mọi phía, rồi thưa dần, rồi vỗ nhịp từng hồi, rồi lại vang dội lên như hối thúc, như giục giã cho cơn nắng già dặn thêm, chói chang thêm, cho lòng ông bồn chồn thêm. Tiếng ve râm ran tưởng chừng như đã tắt hẳn từ bao nhiêu năm đã qua nay cũng đang trở về! Trên trời xa, vài cụm mây trắng nõn như bông đang uốn éo tháo gỡ xiêm y, thay hình đổi dạng. Dăm cánh chim bay vút lên không trung rồi lướt trên mặt hồ mênh mông vang vọng tiếng sóng xôn xao — Có phải đây là Hồ Tây? Có phải đây là Tây Hồ? Có phải đây là Hà Nội? Ông như đang sống trong cơn mộng.

Người tài xế kiêm hướng dẫn đột ngột hỏi:

“Ta vào thăm lăng Bác chứ? Rồi còn phải đi thăm nhiều nơi khác.”

Ông hơi giật mình, thảng thốt đáp:

“Đây… đây có gần chùa Trấn Quốc không? Nếu gần, chở tôi đến đó… nhé, nhé. Còn nhiều nơi khác cần phải đến xem… Sợ không đủ thì giờ.”

Nói xong ông im lặng chờ phản ứng của anh tài xế mà ông nghĩ là muốn ông phải thăm lăng Bác. Anh ta thản nhiên đáp:

“Thì đến đó vậy. Mời ông lên xe.”

Chạy chỉ một đoạn ngắn, chưa đầy mười phút, chiếc xe du lịch nhỏ đã đến cổng chùa Trấn Quốc.

Ông kín đáo quan sát người tài xế. Tóc anh ta hoa râm lưa thưa trên đỉnh đầu, khuôn mặt xương xẩu thường hay đăm chiêu, vầng trán rộng nhiều nếp nhăn, đôi mắt mệt nhọc cố làm ra vẻ hài lòng, miệng thường cố nở một nụ cười không được tự nhiên, giọng nói hơi gắt thoát ra từ hai hàm răng khép một nửa.

Ăn mặc xuyềnh xoàng, áo sơ mi nâu nhạt tay ngắn để lộ hai cánh tay hơi gầy, gân máu nổi lên những lằn xanh, quần kaki bộ đội không thẳng nếp, đôi giày da cũ kỹ. Thêm vào đó, dáng đi lừng khừng, hai vai xiêu lệch, hai bàn tay thỉnh thoảng nắm chặt lại thành nắm đấm đập đập vào nhau.

Cũng trạc tuổi ông, trên dưới năm mươi, và luôn luôn giữ ý gọi ông là ông. Gọi nhau bằng anh xưng tôi có phải tiện hơn không, ông thầm bảo. Có một bức tường vô hình dựng lên giữa hai người, chưa ai chịu san bằng.

Bức tường ấy đã xuất hiện ngay từ hôm ông đáp xuống phi trường Nội Bài cách đây hai hôm. Hôm đó, sau khi làm xong các thủ tục giấy tờ, quan thuế, ông kéo chiếc va li khá nặng ra khỏi tòa nhà phi cảng, vừa đi vừa nghĩ đến nét mặt của nhân viên hải quan phụ trách xét giấy tờ của đoàn hành khách từ nước ngoài về có ông trong đó.

Ông đã được bạn bè dặn trước là muốn khỏi bị hải quan làm khó dễ khi nhập cảnh, cứ việc để sẵn 20 đô la trong thẻ thông hành khi trình giấy tờ. Ông cố ý không làm theo lời dặn xem thử chuyện gì xảy ra. Nhưng mọi chuyện cũng êm xuôi. Chỉ có điều là khi nhân viên quan thuế trả lại ông giấy thông hành, ông để ý thấy vẻ mặt anh ta buồn buồn. Ông tự hỏi không hiểu anh ấy buồn vì không được tiền hối lộ hay vì nguyên nhân nào khác.

Ông đang ngẫm nghĩ thì thì một người tài xế lái chiếc xe đón khách chạy trờ tới, đậu lại, vội vã mời ông lên xe. Ông lên xe ngay, không mặc cả. Ông nhớ rõ cái chau mày của anh tài xế khi một người quen, hay thuộc cấp cũ của anh ta, đon đả gọi “Thưa trung tá! thưa trung tá!”. Trước cái chau mày, người gọi biết ý im ngay, và ông cũng vờ như không nghe thấy gì. Nhưng người tài xế tỏ ra có phần hậm hực với ông.

Thế ra anh tài xế này là trung tá, chắc chắn đã về hưu. Tốt, ông thầm bảo, có lẽ hắn không thuộc loại ác ôn, côn đồ, hoặc sâu mọt, tham nhũng. Bằng không, hắn đã chọn nghề khác thay vì lái xe du lịch rước khách. Ông nghĩ tiếp, 25 năm, 30 năm về trước nếu gặp nhau như thế này tôi và anh hẳn đã tìm mọi cách trừ khử nhau ngay. Lúc đó chắc anh còn là sỹ quan cấp úy quyết “sinh bắc tử nam”, tôi thì lặn lội trong rừng tìm anh quyết “cho anh được toại nguyện”. Nay mỗi người một hoàn cảnh. Anh khó chịu vì anh biết tôi vờ như không biết anh là cựu trung tá. Tôi cũng biết rằng anh biết tôi vờ, nhưng tôi cứ vờ, vờ như thế có nghĩa rằng tôi muốn lịch sự với anh. Lẽ ra anh phải hiểu như thế. Chứ sao lại tỏ vẻ khó chịu?

Chênh chếch bên tay phải con đường vào chùa Trấn Quốc từ ngoài nhìn vào là hồ Tây. Đó là con đường nhỏ, ngắn, lát gạch đỏ. Hai hàng cau mọc ở hai bên đường đang còn non, còn thấp, không quá đầu người là bao. Cau này mới được mười tuổi cùng. Một hương thơm rất thanh và rất nhẹ, chắc là hương cau vừa trổ bông, bay là đà ngang tầm cao của khách thập phương. Con đường ngắn dẫn vào một khoảnh sân chật hẹp, xúm xít mấy ngọn tháp cổ, nằm ngay mặt tiền của ngôi chùa. Không là ngày rằm, ngày hội, nhưng khói hương bay uốn éo trong không gian trưa từ những chiếc bát nhang lớn lộ thiên cao đến đầu người, đặt ngay trước mặt chùa. Thiện nam tín nữ lầm rầm khấn vái, du khách tấp nập đi rảo quanh, chụp hình tới tấp, hỏi han rối rít, theo sau là đoàn người đi ăn xin sỗ sàng, lỗ mãng.

Bao quanh chùa có hồ nước cạn, sen mới thả mọc lác đác. Một cụ già gầy gò lần từng bước dưới hồ nước lên ngang ngực, chiếc áo sơ-mi rách rưới ướt đẫm, hai tay run rẩy cầm chơm bắt cá.

Tình cờ mắt ông đập vào tấm bảng ghi hàng chữ lớn: “Cấm xuống hồ”. Ông đưa mắt nhìn người tài xế rồi nhìn ông già dưới hồ. Anh tài xế nhún vai đáp cộc lốc:

“Vô tư mà.”

Ông không hiểu người tài xế muốn nói gì. Không tiện hỏi thêm, ông nói cho có nói:

“Chùa này cũng đẹp.”

“Vâng.”

“Mà này, anh cho tôi biết tên của anh nhé, để gọi cho tiện.”

Anh tài xế vờ đi như không nghe.

“Bây giờ đi đâu?” Ông nói tiếp. “Hay ta hãy đến thăm đường Cổ Ngư, con đường tôi vẫn thường nghe nói đến nhiều.”

“Vâng.”

Nói xong, anh tài xế đi nhanh đến chỗ xe đậu, cho nổ máy, ngồi chờ. Ông chụp thêm vài tấm hình, rút tiền cho mấy người ăn xin, rồi lên xe.

Buổi chiều, đường phố đông nghẹt, xe cộ, đại đa số là xe hai bánh, tuôn ào ào như thác lũ. Ông rất lấy làm lạ là xe cộ chạy hỗn loạn mà vẫn tránh nhau được, tai nạn vẫn không thấy xẩy ra, hay chưa xẩy ra, và lạ hơn nữa về sự kiên nhẫn của anh tài xế. Không sốt ruột khi đường kẹt khiến xe đậu thật lâu ngay giữa lòng đường, không nổi nóng khi bị xe đằng sau qua mặt cắt ngang, không thèm tránh khi xe ngược chiều sấn tới bấm còi rối rít.

Hơn nửa giờ sau, xe ông đến một con đường ngắn và đẹp, hai bên đường là những hàng me lá xanh mướt và hàng phượng hoa đỏ thắm, chạy giữa hai cái hồ, hồ Trúc Bạch nho nhỏ, không được sạch sẽ lắm, và hồ Tây rất lớn. Bảng chỉ đường có tên đường Thanh Niên. Người tài xế nhìn thẳng trước mặt nói:

“Đường Cổ Ngư đây thưa ông.”

“Nhưng đây là đường Thanh Niên mà!”

“Thanh Niên là tên mới của Cổ Ngư. Tên đường đổi nhiều lắm.”

“Này, cho tôi biết qúy danh đi chứ!”

“Ông nói gì?”

“Tôi muốn biết tên của anh để gọi cho tiện.”

“Hình như ông đã nói câu đó. Ừ thì cứ gọi tôi là Thiệu thiếc gì đó cũng được.”

Thiệu chứ sao lại Thiệu thiếc. Chơi xỏ tổng thống của tôi hả, ông cười thầm, không cảm thấy khó chịu, rồi tiếp tục câu chuyện:

“OK. Nghe nói hai bên đường Cổ Ngư có nhiều ổi. Nhưng ổi đâu cả?”

“Ông nói gì?”

“Ổi. Cây ổi ấy mà. Những cây ổi trên đường Cổ Ngư đâu cả?”

“Ông nói đúng, trước kia có nhiều ổi trên đường Cổ Ngư,” người tài xế uể oải đáp. Rồi nói như đang nói cho mình nghe. “Thuở bé trèo sấu, trèo me, trèo ổi. Thay đổi nhiều quá. Họa chăng còn phố cổ.”

Phố cổ! Của Hà Nội ngày xưa, ông thầm nghĩ. Mà ngày xưa là xưa đến bao giờ? Thời Lê Trịnh chăng? Không phải, thời đó còn có tên Thăng Long. Hay thời Thiệu Trị? Hay cuối thời Tự Đức, triều Nguyễn? Có lẽ cũng không phải. Quân xâm lăng Pháp đã bắt đầu đe dọa nhiều nơi, đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất, đánh Bắc kỳ lần thứ hai, làm gì có cảnh thanh bình, êm ả, như được diễn tả trong những câu nói dân gian như thế này:

Hà Nội băm sáu phố phường

Hàng Mứt, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh…

Thế thì tại sao gọi là Phố Cổ. Hay là phố cũ? Ông lại kín đáo nhìn người tài xế, định hỏi vài điều. Nét mặt anh ta đã trở nên bất động, vô hồn. Cái anh này không muốn mình gợi chuyện, lại vờ vĩnh! Ông tặc lưỡi và nói nhanh:

“Bây giờ đã chiều rồi. Kiếm gì ăn rồi đưa tôi đi đâu thì đưa. Hay về khách sạn cũng được để nghỉ ngơi lấy sức cho ngày mai. Phố cổ, phổ cổ, nghe như nghe chuyện cổ tích. Tôi cũng thích đến đấy tham, tham cái gì nhỉ, vâng, tham quan. Nhưng để ngày mai sáng suả xem cho rõ.”

“Nhưng phố cổ chạy xe khó lắm. Nhiều đoạn cấm ô tô.”

“Vậy thì thế này nhé, sáng hôm sau anh cứ đưa tôi đến đó, rồi thả tôi xuống. Tôi đi bộ xem tiện hơn.”

“Vâng, cũng được. Tôi sẽ chờ ông tại góc sau bên phải chợ Đồng Xuân. Bên phải từ chợ nhìn ra. Hỏi chợ Đồng Xuân ai cũng biết.”

“Anh Thiệu này …”

Người tài xế nhìn ông có vẻ ngạc nhiên. Ông thủng thẳng nói:

“Tôi gọi anh đấy. Anh… anh quên tên anh rồi sao? Này, anh có biết đường đi đến… ngày xưa người ta gọi là xóm Khâm Thiên, xóm ả đào không?”

“Biết quá đi, chứ lị!”

“Tốt lắm. Nhưng chuyện đó tính sau. Sáng mai cứ thả tôi xuống Phố Cổ để tôi tha hồ đi la cà cái đã. Chiều mai đúng 5 giờ anh đến chợ Đồng Xuân đón tôi nhé. Đồng hồ tôi bây giờ là 7 giờ 25 tối.”

“Vâng.”

“Đúng giờ anh nhé!”

“Ông khỏi cần phải nhắc. Nghề của tôi mà không đúng giờ là rách việc.”

Ông vui vẻ vờ hỏi:

“Rách việc nghĩa là gì?”

“Hỏng việc,” anh tài xế đáp lối nhát gừng.

Đúng là cái anh chàng không biết chiều khách một chút nào cả, ông thầm nghĩ. Đã thế, mình phải nói đùa thêm nữa xem sao:

“Có khó khăn gì đâu, rách thì vá nó lại. Như vá áo ấy mà. Anh có bao giờ mặc áo vá chưa?”

“Ông nói cái gì?”

“Tôi hỏi anh có bao giờ mặc áo vá chưa?”

“Có.”

“Thế à. Thì cũng như tôi thôi.”

Anh tài xế bắt bẻ:

“Ông thích đùa? Ở Mỹ mặc đồ vá?”

Ông cười khẩy:

“Đó là tôi nhắc lại chuyện ngày xưa, Áo anh rách vai/Quần tôi có hai miếng vá, trong bài hát gì đó tôi quên mất tên. Bài đó chắc chắn anh biết, nhạc kháng chiến mà.”

Như những lớp tổ ong xúm xít, như những đường mối đi ngoằn ngoèo ngang dọc, những dãy phố nhỏ cũ kỹ ôm lấy những con đường hẹp và ngắn. Quá ngắn! Có những con đường chỉ dài vài mươi thước thôi. Những mái nhà nâu thẩm tàn phá bởi mưa nắng và sương gió của cả hàng trăm năm trời chăng đang uốn cong mình dưới những tia lửa mặt trời mùa hạ. Năm ba cụ già mặc cánh cụt một tay cầm thau nước, tay kia vẩy vẩy rảy nước xuống vỉa hè bọc đá xanh ngay trước cửa hiệu của mình. Bụi bốc lên nhờ nhờ mặt đất.

Chạy dài hai bên đường là hai con rảnh lộ thiên bề ngang rộng hơn một gang tay trên đó rác rến, tàn thuốc lá, bao thuốc lá, bịch ny lông rách, trôi lờ đờ theo dòng nước đen và cạn, đổ xuống những lỗ cống được che đậy bằng tấm vỉ sắt cong queo, rỉ sét. Rải rác đây đó là những nắp cống tròn đúc bằng sắt trên đó lờ mờ những dòng chữ Pháp. Ông ngẫm nghĩ thế thì Phố Cổ, hay đúng hơn, Phố Cũ, được xây dựng vào đầu thời Pháp thuộc vài thập niên cuối của thế kỷ thứ 19? Và đông nghịt những người và người, và hàng hoá, và xe hai bánh.

Ông nhớ tuổi thơ và những ngôi làng nghèo nàn. Ông nhớ những khu phố chật hẹp, thân mật, người đứng bên này đường nghiêng mình một chút là có thể đưa tay nắm lấy tay người đứng bên kia đường. Ông nghĩ đến những ngôi trường nhỏ bé nơi đó mỗi tấm kính vỡ, mỗi khoảng tường nứt nẻ, loang lổ, mỗi viên gạch trên lối đi mòn khuyết, mỗi chiếc bàn học lốm đốm những vết mực tím cùng những chữ khắc tên vụng về, tất cả đều trở thành kỷ niệm quý báu.

Ông bỗng liên tưởng đến những ngôi trường tiểu học, trung học của nước Mỹ. Rộng lớn quá, ngăn nắp quá. Và luôn luôn được chùi rửa, kỳ cọ sạch bóng, xoá mất hết mọi dấu vết cũ. Để luôn luôn được mới mẻ. Nhưng khô khan và lạnh lùng.

Mải miết theo đuổi ý nghĩ, ông chợt thảng thốt nghe tiếng rao phở. Tiếng rao nhỏ, ngắn, giữa trưa nắng, khác hẳn tiếng rao phở văng vẳng âm u trong những đêm đông mưa phùn gió bấc ở Huế. Những gánh phở Bắc. Ông đưa mắt tìm gánh phở. Mắt ông đập vào bảng tên đường: Phố Hàng Cót. Trên lề đường nhỏ hẹp, bên cạnh người đàn bà đứng tuổi ngồi trên chiếc ghế thấp sau cái rổ nhỏ đựng mấy cái lọn tóc để bán — mẹ ông ngày xưa mỗi lần búi lại đầu tóc đều chắp thêm một lọn tóc — là một gánh nhỏ như đồ chơi của trẻ con, một đầu gánh có mươi cái chén sành ố màu, mươi cái muỗng thiếc cong queo, đầu kia một cái nồi bé tí. Không phải là gánh phở rồi. Thì ra gánh đậu hủ, người Bắc gọi là tào phở.

Người gánh bán là một thanh niên gầy gò, mặt mày xanh xao, ăn vận “nhếch nhác” trong bộ đồ bộ đội, chân mang giép nhựa trắng, đầu đội nón cối. Ông thấy lạ, bước tới gợi chuyện. Không đói, không khát, nhưng ông cũng gọi cái gì ăn để nói chuyện với nhau cho tự nhiên:

“Anh làm cho tôi một tô phở nhé!”

“Phở? Thưa tào phở ạ.”

“Vâng, tào phở.”

Không có ghế ngồi, ông đứng trên lề đường ăn chén đậu hủ nóng muốn phỏng miệng.

“Thêm một chén nữa.”

Ông vừa ăn vừa quan sát. Người thanh niên trông hiền lành, lễ phép, dáng dấp nhanh nhẹn, vồn vã, chân đi khập khiểng.

“Bao nhiêu tiền?”

“Thưa năm trăm ạ. Mời ông xơi nước.”

Nói xong, từ một bình ny lông trông giống như cái bình hai lít dùng để đựng dầu hôi trong Nam ngày xưa, anh rót nước lạnh vào một cái ly bằng nhôm móp méo, không có nước đá, và đưa tận tay cho ông. Ông cầm lấy ly nước, ngạc nhiên hỏi:

“Năm trăm đồng?”

Anh bán hàng phân bua:

“Thưa một bát hai trăm rưởi, hai bát xin ông năm trăm.”

Ông không ngờ tào phở lại rẻ đến thế. Ông lẩm nhẩm tính, một đô la tức là một trăm cents khoảng 15 nghìn đồng, vậy một cent tức là 15 nghìn chia cho một trăm tức là 150 đồng… thì… một chén chưa đầy 2 cents Mỹ.

Ông lấy tờ giấy 10000 đồng đưa cho anh bán hàng. Anh loay hoay mở gói bạc quấn trong giấy ny lông tìm tiền thối. Ông vội nói anh giữ lấy tất cả đi. Lại đến phiên anh bán hàng ngạc nhiên và nói bằng một giọng cảm động:

“Con xin ông.”

Ông lân la hỏi anh ta đủ thứ chuyện, chuyện gia đình, vợ con, làm ăn, sinh sống. Anh vào bộ đội năm hai mươi tuổi, bốn năm trú đóng ở biên giới phía bắc, đánh quân xâm lược Trung Quốc, bị thương nặng ở chân, ở lưng, mảnh đạn chạm vào phổi, được giải ngũ, vẫn còn độc thân, “phải gượng sống qua ngày, một mình một thân còn không lo nổi, nói chi đến chuyện đèo bòng vợ con, thưa ông. Vả… con… tật nguyền… không thể lấy vợ được. Với lại… chẳng là lĩnh lương hưu 170 nghìn mỗi tháng sống cũng vất vả đấy, cho nên con gánh cái gánh tào phở đi bán kiếm thêm tiền. Cũng may, cách đây hai tháng được tăng lương hưu lên 200 nghìn.”

Ông lại lẩm nhẩm tính, chỉ khoảng 13 đô la một tháng.

“Anh tên chi?”

“Con tên Đoàn ạ.”

“Anh mấy tuổi?”

“Thưa gần ba mươi.”

Ông muốn nói chuyện thêm nhưng cảm thấy có một cái gì đè nặng lên cổ, lên ngực.

“Chào anh Đoàn tôi đi nhé!”

“Con không dám, thưa ông.”

Những ý nghĩ cũ về đất Bắc, người miền Bắc, thay đổi dần trong ông từ khi ông gặp người tài xế. Bây giờ lại thay đổi thêm. Bánh xe lịch sử quay cuồng đã nghiền nát biết bao nhiêu thân phận con người trong đó hẳn đã có cuộc đời của anh thương binh này, và cả của người tài xế kia, cũng như của chính mình. Ông chợt khám phá ra rằng giữa ông và đám người nghèo khổ, đông đúc, bàng bạc, chen chúc nhau trong Hà Nội, có một sợi dây ràng buộc nào đó mà ông không hề tìm thấy khi ông tiếp xúc với nhiều sắc dân khác nhau trên những xứ sở ông đã đi qua.

Rời khu phố Hàng Cót, ông đi thẳng đến phố Hàng Gà, Hàng Điếu, quẹo trái xuống Hàng Bồ, băng qua phố Hàng Cân thì đến phố Hàng Đào. Phố Hàng Đào! Cái tên gọi đó khơi dậy nhiều liên tưởng trong trí ông. Ông nghĩ đến những hình ảnh trong văn chương, nhất là trong Tự Lực Văn Đoàn, những cô gái xinh đẹp Hàng Đào của một thời xa xưa nào — hình như không xa lắm — đứng bên những tấm lụa đào tha thướt trong cửa hàng ngăn nắp, thơm tho, mơ màng chờ đợi những chàng trai vừa trả xong nợ sách đèn. Đối với các cô, “Phi cao đẳng, bất thành phu phụ!” Phải “đại đăng khoa” rồi mới được tính chuyện “tiểu đăng khoa” với các cô!

Nay ở phố Hàng Đào cũng như những phố khác, đủ mọi thứ hàng hoá được bày bán. Đồng hồ, đồ chơi trẻ con rẻ tiền, máy tính “cao cấp”, va li da, va li nhựa, giày, giép, xà phòng, chậu thau nhựa, chậu thau nhôm, hàng mã, nhang đèn, v.v… Có cả các tiệm hớt tóc, tiệm may, tiệm chụp ảnh, tiệm sửa xe (Chuyên sửa chữa xe máy, nắn khung, càng, bảo dưỡng xe mới, cũ), hoặc tiệm giặt áo quần (Giặt ép là khô, giặt ép là hơi).

Trên lề đường ngay đằng trước cửa hàng “bán cờ, vẽ biểu ngữ, làm biển, trang trí hội nghị, hội thảo, khai trương”, một ông già mình trần mồ hôi nhễ nhại ngồi quạt lò lửa nướng ngô khói lên nghi ngút. Mấy trái bắp đã nướng xong được lột vỏ một nửa đặt nằm song song nhau trên cái mẹt tre đan. Cạnh ông già là một cô gái lam lủ ngồi sau cái rổ trong đó có ba, bốn khoanh chả quế nho nhỏ đặt bên một mớ xôi gấc đựng trong lớp lá chuối xanh. Ông đến mua hai trái bắp nướng, rồi mua luôn xôi gấc chả quế, tất cả cho vào cái gói làm bằng giấy báo cũ. Không hỏi giá, ông đánh bạo rút tiền ra trả chung cho cả ông già và cô gái, để họ chia nhau sau, mà trong lòng cứ sợ trả thiếu. Nhìn nét mặt của ông già và cô gái, ông biết là ông trả rộng rãi. Thấy họ vui, ông vui lây.

Lại đi sâu vào vài phố nhỏ khác gặp mấy quán bán thịt cầy, ông hơi ngạc nhiên. Thay vì nói bóng bảy “Hạ Cờ Tây”, “Nai Đồng Quê”, như trong Nam ngày trước, các bảng hiệu ở đây ghi nguệch ngoạc: “Quán Thịt Chó.”

Cứ thế ông đi hết phố này đến phố khác, đi qua gầm cầu Long Biên, gầm cầu Chương Dương, Ô Quan Chưởng, qua những đường Hàng Đậu, Hàng Khoai, Hàng Lược, Hàng Bồ, Hàng Bạc, Chả Cá, Gia Ngư, Cầu Gỗ… mệt nhoài. Hết băm sáu phố phường chưa, dưới cơn nắng như thiêu như đốt, lòng rộn lên những cảm xúc khó nói thành lời. Nhiều lúc ông có cảm giác ông đang đi trong cơn mộng du, thần trí mê mẩn, thể xác đờ đẫn, tay chân cử động theo quán tính.

Cuối cùng ông men theo phố Hàng Trống. Trước mặt hiện lên Hồ Hoàn Kiếm. Hai người Âu, hay Mỹ, mình trần, quần cụt, đầu cạo trọc, ngồi yên lặng trên một lối đi bên bờ hồ theo thế bán kiết già, mắt nhìn thẳng đằng trước, mồ hôi tuôn ra như tắm. Mấy đứa trẻ con đứng quanh tò mò ngắm nghía, chỉ trỏ. Có đứa đưa tay sờ vào vai, vào lưng người đánh trần rồi thụt tay nhanh như sờ phải than hồng. Đằng sau lưng nhóm người đó là tiệm kem Bốn Mùa có chua thêm tiếng Pháp Quatre Saisons, lác đác khách vào ra.

Ông đứng tần ngần như người lỡ độ đường. Ông khát đến khô cả cổ họng nhưng chưa muốn vào tiệm kem ngay.

Ông nhìn quanh ngẫm nghĩ. Còn những nơi nào mình cần đến thăm nữa? Hãy đến 80 phố Hàng Bông, hay 80 đường Quan Thánh nhé, nơi ngày xưa, khi ông chưa ra đời, một văn đoàn lừng lẫy đặt làm trụ sở. Nhưng nó nằm ở nơi đâu? Có xa lắm không? Đi bộ được không? Những nhà văn trụ cột của văn đoàn ấy suốt đời băn khoăn tìm kiếm một cái gì đó, rồi kẻ theo phe này, người theo phe nọ, kẻ bị thủ tiêu, người tự sát, nay đều đã thành người thiên cổ.

Nghĩ đến đó, ông không ngăn được tiếng thở dài. Rồi nào Chèm, nào Vẽ, nào Kim Liên, nào Ô Cầu Giấy, nào Ga Hàng Cỏ, những tên gọi ông đã gặp nhiều lần trong sách vở.

Nhưng thôi nhé, lại sắp phải giã từ Hà Nội của mùa hè thiêu đốt, của tiếng ve sầu và cánh phượng biệt ly, và cả của những nếp sống xa hoa hoặc kiếp sống đọa đày.

Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có mùa hè. Ông vẫn nghe nói Hà Nội có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Và những mùa khác nữa chứ. Còn mùa Tết với hoa đào, với giò thuỷ tiên và những cơn rét ngọt. Còn mùa lũ lụt với những cơn rét đậm, với con sông Hồng thịnh nộ cuồn cuộn dâng nước đỏ ngầu lên mép bờ đê Yên Phụ, Nghi Tàm. Và đặc biệt là mùa Thu, mùa thu của một nhà thơ nổi tiếng Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà, Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Và “mùa Thu tiến vào Hà Nội theo những chòm mây từ dãy Ba Vì, Tam Đảo để soi bóng xuống Hồ Tây, và cũng đồng thời theo chân những dáng người thân thương gánh những gánh cốm Vòng êm ả đi từng bước nhỏ bắt đầu từ cửa Ô Cầu Giấy”, một nhà văn yêu Hà Nội tha thiết đã viết như thế. Hay nói như Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ vừa nằm xuống, trong một bài ca đầy thương nhớ:

Hà Nội mùa thu

Mùa thu Hà Nội

Mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió

Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ

Cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua …

Hà Nội mùa thu thơ mộng đến thế sao? Ông mong là như vậy nhưng đồng thời cũng nghĩ thêm rằng những tình cảm lai láng ấy có lẽ phải xuất phát từ những người được nuôi dưỡng ở đó trong một thời gian tối thiểu nào đó. Còn ông? Chắc chắn ông không nhìn Hà Nội bằng cái nhìn bàng quang của một du khách nước ngoài. Trái lại, lòng ngổn ngang, lẫn lộn.

Sau một ngày đi bộ dưới cơn nắng dữ dội, ông mệt lả người. Tuy thế, buổi tối hôm đó ông cũng ráng đi xem Hồ Tây ban đêm. Ông đi bộ một mình, dặn tài xế ngày hôm sau đến khách sạn gặp ông sớm. Quá nửa đêm ông mới trở về khách sạn, ăn uống qua loa, lên giường ngủ vùi.

Sáng hôm sau theo thói quen ông vẫn dậy sớm, tắt ngay máy lạnh, đến bên cửa sổ kéo tấm màn tuyn trắng mỏng, và mở cửa cho gió lọt vào. Gió ban mai mát rượi, một cảm giác dễ chịu tràn vào.

Lúc bấy giờ ông mới nhìn kỹ căn phòng. Hai cái giường ngủ tươm tất nằm kế bên nhau. Cạnh giường là cái bàn viết có đèn đọc sách, đèn ngủ, điện thoại, đồng hồ báo thức. Sát tường là cái tủ áo cao gần đụng trần nhà, một cánh cửa của nó được đính vào tấm gương hình bầu dục cỡ lớn, cánh cửa kia khắc họa công phu ở bốn góc hình mai, lan, trúc, cúc, cẩn xà cừ. Tiếp đến là một tủ trà làm bằng gỗ gụ chạm trổ hình rồng, hình phượng rất tinh vi. Một cái T.V. khá lớn đặt bên cạnh chiếc bàn bằng gỗ cẩm lai trên đó có sẵn một bình đựng nước đá cục, một bình thủy nước nóng, một bình pha cà phê, một cái ấm pha trà, một bộ tách trà, và một lọ thủy tinh nhỏ cao cổ cắm một chiếc hoa hồng tươi. Từ ngày về thăm quê hương, ông để ý ngươì ta thường chưng một đoá hoa hồng như thế. Ở hai đầu bàn là hai chiếc ghế dựa cũng bằng gỗ cẩm lai. Đặc biệt là có một cái làn bằng mây đan đựng đầy vải thiều Bắc Giang, những trái vải vừa chín tới, da xanh, loang lổ hồng, đỏ, và mọng. Khác những nơi ông đã đến, phòng này có cả máy lạnh lẫn quạt trần. Mọi thứ gọn gàng, xinh xắn và tạo nên những nét thân mật của một căn phòng trong một ngôi nhà riêng ấm cúng.

Căn phòng ngủ này nằm trên lầu ba nhìn xuống một con đường khá lớn nếu so với những con đường nhỏ và ngắn của khu phố cũ mà ông đã đi qua ngày hôm trước.

Ông ngồi uống trà, chờ người tài xế. Đúng giờ hẹn, anh tài xế đến. Không chào hỏi chiếu lệ, anh tài xế đứng ngay trước cửa, nói:

“Tôi nói như thế này thật là không phải. Nhưng… mãi tối hôm qua tôi mới nhớ ra là tôi có việc cần phải về Hà Nam gấp.”

Ông ngẩn người:

“Thế thì kẹt cho tôi quá!”

“Không sao. Tôi sẽ tìm xe khác cho ông.”

Ông tỏ vẻ khó chịu:

“Thì giờ của tôi được bao nhiêu đâu…”

“Có xe ngay,” anh tài xế cướp lời. “Hôm nay theo chương trình, ông sẽ đi Hạ Long phải không. Sẽ có xe khác đưa ông đi ngay. Xe đi Hạ Long thiếu khối gì. Sau đó sẽ xúc tiến đi nơi khác, nếu ông muốn.”

Ông thở dài nhẹ nhỏm, đặt tách trà nóng xuống bàn, vui vẻ hỏi:

“Bất ngờ quá nhỉ. Nhưng, có chuyện này ta cứ nói thật với nhau nhé. Tôi có làm điều gì phiền anh không? Để anh bỏ tôi nửa chừng?”

“Có gì đâu mà phiền hà! Ông trả tiền, tôi làm theo ý ông, thế thôi. Tiền trao cháo múc. Nhưng dù sao tôi cũng là người vi phạm hợp đồng, cho nên… đối với hai ngày vừa qua, ông muốn trả tôi bao nhiêu cũng được. Không thành vấn đề cho lắm.”

“…”

“Ông cứ tính toán đi. Để đỡ mất thì giờ, ông tính trước một mình, thế nào cũng được. Tôi đi gọi xe khác cho ông. 15 phút tôi trở lại.”

Nói xong người tài xế bước vội ra khỏi cửa. Ông gọi giật lại:

“Anh Thiệu này! Tôi muốn bàn với anh một chuyện!”

Anh tài xế đứng lại nhìn ông cố giấu vẻ khó chịu. Ông thủng thẳng đi vòng qua phía bên kia bàn, kéo ghế ra, rót thêm một tách trà, đặt trước anh tài xế, chậm rãi nói:

“Mời anh ngồi lại đây uống với tôi chút trà cái đã. Còn sớm chán. Người Bắc gọi là chè phải không? Uống chè Tầu! Anh thấy chưa, tôi xa quê đã lâu vẫn phân biệt được một số tiếng Bắc, tiếng Nam. Tiếng Trung tôi cũng biết, tôi muốn nói tiếng Huế.”

Anh tài xế lẳng lặng ngồi xuống ghế, vớ lấy tách trà uống một hơi cạn chén. Ông cười thân mật:

“Anh uống nóng giỏi quá!”

Ông vói tay định châm thêm trà, anh tài xế xua tay từ chối. Ông tưởng cũng nên nói đùa một câu, và ông nhận thấy ngay rằng câu nói đùa của mình nghe vô duyên quá:

“Tôi mà uống nóng như anh thì sẽ vào nhà thương gấp.”

“… “

“Là vì cái lưỡi của tôi sẽ bị luộc chín như cái lưỡi heo bán tại một sạp nhỏ bên ngoài chợ Đồng Xuân. A, cái chợ Đồng Xuân tôi nghe nói từ thuở nhỏ. Hà Nội thì chợ Đồng Xuân, Huế chợ Đông Ba, Sài Gòn chợ Bến Thành. Thế mà hôm qua tôi đã đến đó nhưng chưa vô. Chỉ đứng ngoài nhìn vào.”

“Thế ư.”

“Anh biết tại sao không. Một là vì đi bộ quá nhiều, mệt đứ đừ, vào trong đó bí hơi. Hai là… tôi nhận thấy đủ mọi thứ mặt hàng đều đã được bày bán trên khắp các phố phường rồi, thì việc gì phải vào chợ cho mất công. Đứng xa nhìn vào thấy được tổng quát. Anh đồng ý không?”

“Vâng.”

Ông tiếp lời:

“Có chuyện này hơi ngoài đề, nhưng tôi phải nói ngay, không chốc nữa quên mất. Rằng là tuổi chúng ta sàn sàn nhau, có lẽ ta gọi ‘anh tôi’ với nhau nghe gọn hơn. Đồng ý anh nhé!”

Anh tài xế chau mày, những nếp nhăn hằn sâu trên trán. Anh ngoảnh mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, gằn giọng đáp:

“Thế à? Nhưng… nhưng tiền gọi, chứ đâu phải tôi gọi. Ông trả tiền, tôi làm phận sự, như tôi đã nói. Cho nên… tôi xưng hô ‘ông tôi’ cũng đúng thôi. Vả lại, như thế nó chuyên nghiệp hơn.”

Ông nói lãng qua chuyện khác:

“Tôi mới bắt đầu tập uống trà đây, nghĩa là mới được vài ngày thôi. Ở bên Mỹ không có thì giờ uống trà. Cho nên tôi chưa quen uống nóng. Mà uống trà phải nóng mới ngon, có đúng vậy không anh?”

“Tùy người. Nhưng tôi phải đi ngay. Không khéo mất hết thì giờ qúy báu của ông. Lại rách việc.”

Ông đứng dậy, đến đầu giường lấy điện thoại gọi thêm bình nước nóng và thức ăn sáng cho hai người, rồi trở lại ghế ngồi vồn vã nói:

“Tôi không gấp đâu. Mình có thể đổi lại chương trình chút ít. Thay vì đi Hạ Long hôm nay thì… thì hôm khác đi cũng được. Hà Nội còn có biết bao nhiêu nơi tôi không biết, nói gì đến Hạ Long…”

“Nhưng tôi gấp,” anh tài xế ngắt lời. “Tôi phải đi Hà Nam nội nhật ngày hôm nay.”

“Vâng tôi biết chứ. Xin anh nán lại thêm một chốc nữa thôi.” Ông cố ý khề khà. “Tôi còn có điều này muốn nói với anh là… Cũng đơn giản thôi. Chẳng qua là… có lẽ anh còn nhớ hôm trước lần đầu tiên ta gặp nhau, tôi vô tình để lọt vào tai câu chuyện của anh… Được biết trước kia anh là trung tá bộ đội. Tôi trước kia cũng trong quân đội miền Nam. Thì cứ gọi nhau một cách tự nhiên như, như ngày xưa ta không hề ghét nhau, có phải vui hơn không. Ông iếc làm chi. Rườm lời!”

Nói xong, ông lại nhận thấy mình pha trò vô duyên quá. Không chờ người tài xế đáp, ông đứng dậy, đi đến tủ áo loay hoay tìm chiếc máy hình và ví tiền. Mắt ông chạm vào gói giấy báo trong đó có bắp nướng, xôi gấc, chả quế mà ông vô ý để vội vào tủ áo từ tối hôm qua. Ông lấy mấy thứ đó ra, để tại một góc bàn trong khi anh tài xế đang cau mày nhìn mông ra ngoài cửa sổ.

Người phục vụ của khách sạn lễ mễ mang một cái khay lớn gồm có phích nước nóng, hai mẩu bánh mì, hai đĩa trứng rán thịt muối, mấy thỏi bơ, hai ly sữa tươi, hai quả chuối.

“Ta ăn sáng cái đã, rồi anh đi Hà Nam, còn tôi tính sau. Hà Nam? Nghe quen quen. Anh đến ngay tỉnh lỵ chứ?”

“Không.”

“Thế thì ngoại ô? Hay miền quê?” ông cố kéo dài câu chuyện.

“Tôi về quê, vùng Bình Lục, Yên Đổ.”

“Yên Đổ?” ông lẩm bẩm. “Tam Nguyên Yên Đổ. Trong Sài Gòn trước kia chúng tôi có đường Yên Đổ nay không biết có còn hay không. Con đường đó nhiều cây cối, nhiều biệt thự trang nhã, đẹp nhưng vắng. Thế Hà Nam, Bình Lục, Yên Đổ có xa đây lắm không anh?”

“Gần thôi. Từ đây đi Hà Đông, rồi qua khỏi Hà Tây là đến Hà Nam…”

“Thế tôi cũng đi Yên Đổ với anh,” ông vừa nói vừa cười. “Với lại, cứ xưng hô anh tôi cho tiện.”

“Ông… ông… vâng, anh nói gì?”

“Tôi muốn đi Hà Nam, Yên Đổ cho biết. Tôi chưa biết tỉnh nào, thành phố nào của miền Bắc cả, trừ Hà Nội vừa mới đến qua.”

“Nhưng về Việt Nam,” anh tài xế cũng cười cười đáp, đến lúc đó mới thấy anh cười, “mà không đi Hạ Long thì cũng coi như chưa về. Người ta vẫn nói thế. Anh nên đi Hạ Long, về sau khỏi hối tiếc.”

“Hạ Long quá nổi tiếng, có lẽ có nhiều đoàn du lịch tổ chức đi, thì đi lúc nào chả được. Mà phải có nhiều thì giờ hơn nữa để tiện thể đi thăm Chùa Hương, Sa Pa, chẳng hạn… Chuyến sau về thăm hẵng hay. Nếu được, đi lên miền biên giới xem Ải Nam Quan bây giờ nằm ở nơi nào. Nằm thụt vào nước Tàu bao xa? Anh biết gì về chuyện Ải Nam Quan không?”

Anh tài xế cau mày, đôi mắt lộ vẻ khác thường. Ông vội nói tiếp:

“Để khi khác ta lại trở lại vấn đề này nhé. Còn bây giờ… Hơn nữa đến những tỉnh nhỏ mà không có người hướng dẫn là, là lúa vàng ngay…”

“Anh nói gì?”

“Ô, tôi xài tiếng lóng đó mà. ‘Lúa vàng!’, tiếng lóng của ba bốn mươi năm về trước bỗng nhiên hiện lên trong đầu tôi thật bất ngờ. Bây giờ đem ra xài chắc cũng ít người hiểu tôi muốn nói gì. ‘Lúa’ có nghĩa… là thất bại, là hỏng, là kẹt. Là rách việc. Chẳng là có một giáo sư dạy tiếng Pháp tên là ông Lúa… Ô sao tôi ba hoa dài dòng quá. Tôi phải vào đề ngay, anh… mình cần đi gấp mà. Vâng tôi phải có người hướng dẫn riêng nếu muốn đi thăm những nơi ít ai biết, không có tua du lịch. Tôi đi Hà Nam, Yên Đổ với anh nhé!”

“Cũng được. Nhưng tôi phải báo cho anh biết trước rằng… chả có gì đáng xem đâu.”

“Không sao,” ông vội vàng tiếp lời. “Rồi từ Hà Nam, Yên Đổ, ta chia tay. Tôi sẽ đi xe lửa từ đó thẳng vào Trung được chứ? Mà ở Hà Nam có bến xe lửa không? Ô tôi lại nói nhầm rồi, phải nói có ga tầu hỏa hay không, mới đúng giọng Hà Nội của anh chứ!”

Người tài xế mỉm cười, gật đầu.

Trước khi đi Yên Đổ, anh tài xế đưa ông đi một vòng thăm bảy, tám cái hồ khác, như hồ Thủ Lễ, Ngọc Khánh, Thành Công, Đống Đa, rồi mới đến các hồ Văn Chưởng, Thiền Quang, Ba Mẫu, Bảy Mẫu gần đường Lê Duẩn, Giải Phóng để xuôi Nam cho tiện. Còn Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, và hồ Hoàn Kiếm, ông đã đến thăm hôm trước. Anh ta giải thích Hà Nội có nhiều hồ lắm, có đến ba bốn chục cái hồ. Theo thời gian, hồ cạn dần hoặc bị lấp đi để làm đất trồng trọt, hoặc làm nhà cửa. Nay chỉ còn lại mươi cái hồ nổi tiếng.

Bảo là đi xem hồ, tiện đường anh tài xế cũng chịu khó đưa ông đi đến các nơi như Văn Miếu, Vườn Bách Thảo, Nhà Hát Lớn, Chùa Quán Sứ, mỗi nơi ghé qua một chốc.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Ngự Thuyết

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)