“Chú đói bụng chưa? Nhà chẳng có cái gì ăn, hay mình kéo nhau đi ăn ngoài đi.”
“Vâng, chú đang đói đây. Trước khi đi tìm địa chỉ của cháu, chú đã định ăn cơm trưa tại khách sạn, nhưng nhìn lại đồng hồ thấy trễ, chú vội đ. Chưa kịp ăn uống gì cả.”
“Thế thì đi ngay bây giờ chú nhé, và chú đãi nhé! Được không?” Thi nhanh nhẩu.
“Sẵn sàng, sẵn sàng. Không những hôm nay đãi mà còn đãi dài dài cho đến ngày chú đi Mỹ. Nhưng bây giờ ngồi nán thêm một chút xíu nữa thôi, nhe cháu?”
“Nán thì nán. Nhưng để làm gì?”
“Chú có nhiều chuyện muốn nói cho cháu nghe, và muốn nghe cháu nói. Ngồi lại đây một chút thôi, tiện hơn.”
Thi có vẻ miễn cưỡng:
“Thì ngồi lại chứ có sao. Cũng hãy còn sớm, độ 8 giờ đi là vừa hả chú.”
“Vâng, 8 giờ chú cháu mình đi. Nhưng cháu đã đói chưa?”
“Chú tử tế dữ! Thật ra cháu đâu có đói. Cháu muốn đi ngay chẳng qua là vì phòng cháu như cái chuồng heo chật ních, lại xô bồ xô bộn, sợ vướng mắt chú đó thôi. Này, hỏi thiệt nhé, nhìn nơi cháu ở, chú có thấy bị gai đâm vào mắt không? Ra ngoài kia, thoải mái hơn là cái chắc. Biết chú tới, cháu đã cố dọn dẹp cái phòng cho nó gọn, mà loay hoay mãi chẳng thấy gọn hơn một chút nào cả, đành chịu trận vậy.” Nói xong cô gái cười ròn một cách tự nhiên.
“Cháu yên chí. Chỗ ở của chú còn tệ hơn nhiều. Nghĩa là bừa bãi, lung tung, giống như đống rác thành phố.”
Thi nhún vai, mắt lườm lườm:
“Thế thím đâu?”
“Chú không có thím,” ông đáp vội. “Bây giờ chú đi thẳng vào đề nhé. Chú muốn cháu cho chú biết hồi còn cùng mẹ cháu ở trên đảo… “
“Chú ơi,” Thi cướp lời, mặt vênh lên, “sao chú dai thế. Hồi nãy chú đã hỏi và cháu đã trả lời rồi, bây giờ lại bắt cháu thành thật khai báo nữa! Có chuyện gì vui đâu mà nói. Với lại hồi đó cháu còn bé tí đã biết gì đâu, nghĩa là vào thời gian mẹ cháu còn sống. Còn sau này lớn lên cháu sống một mình chắc là chú cũng chẳng cần phải biết để làm gì. Chán lắm chú ơi, đừng bắt cháu nói. Chú mà còn lộn xộn thì bye – bye ngay lập tức nhe. Khỏi phải nặn óc ra nói những cái chuyện không đâu vào đâu. Được không?”
Ông nén giận. Ly nước đá ông đã uống cạn từ bao giờ. Con nhỏ quả mất dạy, ông nghĩ thầm. Căn phòng bỗng trở nên im lặng, nặng nề. Đèn đường đã bật lên từ lúc nào tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt chiếu vào căn phòng nhỏ. Bụi bặm bay hỗn loạn trong ánh đèn điện xeo xéo. Tiếng xe cộ, tiếng còi huyên náo bỗng rộ lên. Ông nhìn ra ngoài dáo dác. Cô gái nhanh nhẩu:
“Chú lạ lắm sao? Giờ đi làm về mà. Để cháu khép cửa lại. Nhưng có đàn ông trong phòng riêng của mình mà đóng cửa tức là người ta sinh nghi ngờ đó chú.” Tiếng cười trong trẻo của cô lại vang lên.
Ông đáp buông thỏng:
“Cái đó còn tuỳ.”
“Tùy ai? Tùy chú hay tùy cháu? Nói vậy chứ đằng nào cũng phải đóng cửa lại, cho đỡ ồn, đỡ bụi. Rồi cháu bật cây đèn này lên. Thế là căn phòng sẽ… ấm cúng, sẽ… cách biệt, sẽ khỏi bị mấy tên cha căn chú kiết nào không biết từ đâu tới, hễ cứ mỗi lần đi ngang qua là thò cái đầu dòm vô. Lại có đứa đảo đi đảo lại một vòng nữa, chú có để ý thấy không?”
Quả thật ông có thấy chuyện đó, và ông thầm nghĩ rằng cô gái ngổ ngáo này có nhiều bạn trai ngổ ngáo cùng loại thì cũng là chuyện thường tình thôi. Chúng nó là những tên cha căng chú kiết không biết từ đâu tới? Nói dối vụng lắm cô bé ơi. Thì cứ nói thật tụi ấy là bạn trai, nghe còn có lý. Nhưng ông sợ sự thật còn tệ hơn. Ông chau mày không muốn nghĩ thêm. Cô gái tiếp lời:
“Cái gì vậy chú? Còn giận cháu hả? Được, cháu sẽ kể chuyện đời xưa, chuyện đó… chuyện mẹ cháu, với điều kiện… Dễ thôi, chú kể trước, rồi đến phiên cháu.”
“Cháu muốn chú kể chuyện gì?” Ông cố giữ giọng nói nhẹ nhàng.
“Chắc chắn là chú đã đi nhiều nơi trên thế giới. Kể chuyện bên Tây bên Tàu đi! Cháu thích du lịch lắm nhưng chưa được đi đâu cả. Thì du lịch bằng lỗ tai vậy.”
“Cái gì? Du lịch bằng lỗ tai?”
“Là không đi bằng chân, xem bằng mắt, thì nghe bằng lỗ tai. Được không? Trước hết chú đi bằng phương tiện gì, nghĩa là máy bay hay xe hơi, xe lửa, hay tàu thủy? Hay tàu ngầm cho thiên hạ né? Nghe nói bên Mỹ có người đi chơi bằng tàu ngầm chui qua Bắc Cực. Nơi nào chú thích nhất, nơi nào có nhiều kỷ niệm nhất? Chú phải kể cho có đầu, có đuôi. Nhớ là đầu trước đuôi sau, từng bước một cho có thứ tự.”
“Chú sống một mình, nên mỗi lần du lịch xa là chú đi theo đoàn có người lo toan mọi chuyện, cho khỏe. Tức là đi tua. Đi du lịch xa là đi ngoài nước Mỹ. Đường hàng không, đường bộ, đường thủy đều có đi, nhưng chưa đi du lịch bằng tàu ngầm như cháu nói cho… cho thiên hạ né.”
Thi cười ròn:
“Rồi sao nữa, nói tiếp ngay đi chú!”
“Nói vậy chứ đi theo đoàn cũng có cái bất tiện, mà cũng có cái lợi. Lợi là mình biết được nhiều nơi đặc biệt, mỗi nơi một chút. Không có lợi là mất tự do. Có lẽ chú sẽ cho in một cuốn sách du lịch về…”
“Thế thì hay quá,” Thi vội ngắt lời. “Cháu giúp chú đặt tên sách nhé: Xuyên Suốt Hành Tinh. Cái tên nghe có cộm không nào?”
Không những hỗn láo, mà còn láu táu, lí la lí lắc, nói hớt, ông thầm nhủ. Nhưng thôi, để tâm vào chuyện đó làm gì cho mệt. Chốc nữa cho nó một ít tiền là xong. Vì mẹ nó, mình sẽ tìm cách giáo dục nó sau. Tìm cách nào nhỉ? Có lẽ chuyến sau về đây lâu hơn, sẽ tìm bà con, họ hàng, còn ai không nhỉ, đem nó tới gởi gắm, coi ngó. Chắc cũng khá rắc rối. Nhưng thôi, tính sau. Nghĩ như thế, ông bớt bực bội. Cũng lạ, khi đã chuyển đổi được một ý niệm trong lòng, ông không còn cảm thấy khó chịu nữa, vui vẻ lề mề hỏi như cái thói quen từ xưa của ông:
“Hả? Nghe cộm? Chữ này mới toanh đấy. Hả? Nghe cộm là gì hả cháu?”
“Là nghe tốt, nghe hay, nghe đúng, nghe nổi bật lên, chứ là gì nữa! Rồi sao nữa? Từng bước một nhé, đừng kể nhảy cóc.”
“Chú để ý thấy rằng mỗi khi xe dừng lại, du khách không hề hỏi, chẳng hạn nơi nào đẹp, cảnh nào cần chụp ảnh, quay phim, di tích lịch sử nào cần ghi nhớ, nơi nào bán đồ đặc sản đáng mua, món ăn địa phương nào ngon cần phải nếm qua cho biết. Vân vân. Trái lại mọi người đều…”
Cô bé ngắt lời:
“Đều mệt đứ đừ, hoặc ngồi ngáy khò khò, hoặc lấy chai nước ra tu cho thông cổ, chứ còn biết làm cái khỉ khô gì nữa!”
Ông cảm thấy nói chuyện với cô bé láu táu này càng lúc càng vui. Ông cao hứng muốn nói đùa, pha trò, đủ chuyện. Thỉnh thoảng ông vẫn hành xử như thế. Ông tiếp lời:
“Không phải, để chú nói cho hết chứ. Ngáy khò khò là khi xe đang chạy. Khi xe dừng, mọi người đều tỉnh giấc. Rồi mở choàng mắt hối hả hỏi, ‘Toa- lét đâu? Nhà cầu đâu? Rest-room đâu?'”
Thi hỏi một cách ngây thơ:
“‘Rét run đâu’ là cái quái gì? Lạnh lắm sao?”
“Hả? Rest-room? Không là cái quái gì cả mà là cái cầu tiêu. Cuốn sách chú sắp viết sẽ đáp ứng được đòi hỏi gấp rút đó. Sách sẽ chỉ rõ nhà cầu nào miễn phí, nhà cầu nào phải trả tiền, và bằng thứ tiền gì, tiền đô la, franc, mark, shilling, hoặc lire, hoặc yen v.v… để du khách đổi sẵn khỏi lo bị thối tiền thiếu hoặc gian, nơi nào sạch, chỗ nào có xả nước tự động hoặc bấm nút, chỗ nào có để sẵn một chai nước bé tí dùng dội cầu, chỗ nào có sẵn lu và gáo, nơi nào không có giấy vệ sinh hoặc cần phải mang thêm giấy vệ sinh, hoặc cuốn giấy vệ sinh bị khoá chặt không gỡ ra mang đi được, nơi nào lộ thiên, để khách vừa ngồi thoải mái vừa ngắm chim bay ngang đầu, mây bay ngang trời, nơi nào không có xà bong, không có khăn lau tay, không có ống xịt hơi nóng. Lại có cả loại nhà cầu cửa tự động khóa lại sau 15 phút, nghĩa là không cho dùng lâu quá 15 phút.”
Thi nói chen:
“Nhà cầu gì mà thắt họng thế!”
“Cháu biết tại sao không? Mục đích là để ngăn ngừa những người không nhà, vô gia cư, khỏi vô đó ngủ qua đêm. Thế là du khách tha hồ chọn lựa nhà cầu theo sở thích, theo nhu cầu. Cuốn sách sẽ có tên Những Vấn Đề Sống Chết Về Nhà Xí. Sách chắc chắn sẽ bán đắt hơn tôm tươi.”
Thi ôm bụng cười ngất:
“Chú ơi, chú có nói lộn không chú. Khi người ta có nhu cầu, không phải, có vấn đề sống chết đó, thì người ta phải giải quyết ngay, có huởn đâu mà chờ đợi và chọn lựa theo cái chỉ dẫn thắt họng của chú.”
Ông cười cười và gục gặc cái đầu tỏ vẻ biểu đồng tình:
“Ủa, uả, Thi… Thi nói thế mà đúng đấy. Quả là vậy! Bậy quá, chú đã dành trọn đời đi tìm tòi, nghiên cứu cái đề tài chết dịch đó! Bây giờ nhờ có cháu chú mới thấy cái công trình ấy hoàn toàn vô dụng.”
Không khí giữa hai người lại trở nên dễ chịu hơn. Cô gái nói liến thoắng giữa những tràng cười kéo dài:
“Chú quạt đã rã… hai cánh tay chưa? Phì phạch nãy giờ đã chán chưa? Nhưng không sao, chút xíu nữa thôi trời sẽ dịu lại, chú có quyền… có quyền trả cái quạt lại cho Thi. Cái quạt Xuân Hương! Xa nơi này lâu ngày, chú có còn nhớ gì về cái cô nàng sư tổ lẳng lơ đó không? Đêm Sài Gòn luôn luôn mát mẻ dễ chịu, mùa hè cũng như mùa đông. Mà Sài Gòn có mùa đông không chú? Nhưng chắc… chú khát nước lắm rồi, để cháu đi xách về hai chai bia ướp đá nhé!”
Cái ông cà gật này cũng lạ, vui không ra vui, buồn không ra buồn, nghiêm không ra nghiêm, tếu không ra tếu, dê không ra dê, cừu không ra cừu. Cứ ỡm ờ mãi. Nghĩ tức cười, trọn đời đi nghiên cứu cầu tiêu! Đùa không ra đùa, thật không ra thật. Lại cái lối nói vậy mà không phải vậy!
Nhưng hồi còn trẻ có lẽ cũng ngon đấy, mẹ yêu là phải. Bây giờ? Nét mặt hơi khắc khổ, trán đã có nét nhăn, tóc đã lẫn những sợi bạc, thái độ gay gắt bất chợt, được cái có vẻ thành thật. Hình như có một sức thu hút đàn bà. Nhờ giọng nói trầm trầm, nhờ con mắt có lúc âm u, có khi lóe vài tia sáng. Hay nhờ dáng người, cách đi, cách đứng, cách ngồi. Hay nhờ cái gì khác nữa mà mình chỉ cảm thấy mà không diễn tả ra được.
Chắc chắn là có tiền, nhiều tiền. Người yêu của mẹ! Bà dì đã nói như thế. Nhưng mẹ chết nên ổng đi tìm cho được đứa con để… săn sóc? Nghe có xuôi tai hay không hả anh chàng điếm? Được, mình sẽ có cách xử lý miễn là làm thế nào cho ổng tin mình. Không biết ổng đã biết được những gì về mẹ con mình thời gian trên đảo, và nhất là sau đó mình sống một mình? Mà làm sao biết được! Thôi thì cứ tùy câu chuyện đưa đẩy rồi tìm cách đối phó.
Mẹ chết mình chưa được mười tuổi. Hồi đó mình tưởng mình chết theo. Chắc mình không sống nổi qua mùa đông. Rồi mùa đông hết, mình đau ốm quặt quẹo mà vẫn cứ sống, rồi những mùa khác qua qua, bao nhiêu năm đã qua, mình vẫn cứ sống nhăn răng như thường. Có khi nhớ mẹ muốn chết đi đuợc, có khi quên phứt mẹ, quên liền trong mấy tháng. Đoảng! Phải chi mình sắm cái bàn thờ, nhưng chỗ đâu mà thờ. Không lẽ cắm hoa vào chai bia, cắm nhang vào lon cô-ca, rồi chưng lên trên đầu giường. Mà cái giường làm gì có đầu có đuôi. Mình lúc phải xoay ngược, lúc nằm ngang, lúc phải trở xuôi. Như chong chóng. Thờ đâu chẳng thấy, chỉ thêm mang tội.
Những ngày gần đây cuộc đời sao chó má quá! Làm cách nào để có thể thoát khỏi cái cảnh này? Cái ông dở hơi này muốn giở trò gì đây?
Phải chi mẹ còn sống. Phải chi có ngôi mộ để lâu lâu mình đến thăm một lần, nhổ vài cọng cỏ dại, thắp ba cây nhang, mang theo vài món ăn bậy bạ ngồi ăn bên cạnh mộ, như cùng ăn với mẹ, thì… thì đỡ biết mấy. Mẹ con ăn uống sum họp vui vầy. Nhưng mà cúng xong mới được ăn chứ? Và đồ cúng phải có nhiều món tinh tấn chứ. Không lẽ chỉ một khúc bánh mì thịt, một ly nước mía. Ngày rằm, ngày vía, ngày tết mang hoa theo, mang thêm tiền lẻ cho tụi nhỏ biểu chúng nó dẫy mã, biểu chúng nó đi quanh kiếm hoa dại trồng trước mộ. Như mấy con xí xọn vẫn làm. Con Yến, con Duyên. Cũng lạ, tụi đàng hoàng ít khi thăm mồ mả, tụi bê bối thì đều đặn lắm.
Nhưng không có ngôi mộ thì biết thờ cúng như thế nào hả mẹ? Ít ra phải có một bình tro cốt, một tấm hình để thờ trong chùa.
Mình không có gì cả! Mẹ ơi, phải chi con có được một tấm hình của mẹ. Riết rồi quên cả mặt mẹ, chỉ lâu lâu trong giấc mơ, mẹ hiện về thì thấy mặt mẹ thật rõ.
Nhưng con cũng có cách, con sẽ vào đại trong một ngôi chùa nào đấy, tưởng tượng có mẹ ở đó, con vô chùa thì hồn mẹ cũng bay theo về, con lạy, cúng, khấn khứa, nghe thầy tụng kinh đánh chuông gõ mỏ buồn thiu, con nằm rạp xuống sàn nhà mà lạy, cặp mắt nhắm trít buồn ngủ, rồi cứ thế ngủ một giấc dài không bao giờ trở dậy. Thế là gặp được mẹ mãi mãi. Mẹ ơi! Con đang nhớ mẹ. Cái ông ấm ớ này cũng đang nhớ mẹ đấy.
“Chú cần ly không? Cháu uống thẳng từ trong chai.”
“Chú không cần ly. Chú cũng uống từ trong chai nhé, nhưng có cái straw không?”
“Cái gì? Tro? Tro trong bia?”
“Không, không sao. Chú nói sai. Cháu ghiền bia?”
“Ô chú ơi, ghiền gì mà ghiền. Có khách thì phải uống chơi với khách chứ… à mà… không lẽ để người ta, để chú ngồi uống một mình, cháu ngồi dòm mồm à. Chú kể thêm chuyện khác đi. Chuyện vừa rồi, chuyện cầu tiêu, cũng vui, nhưng không thơm tho. Thúi nữa là khác. Chú lẫn rồi, chả ra làm sao cả.”
“Chú chưa lẫn đâu. Nhưng chuyện đó viết thành sách mới là điều không nên làm thôi. Vâng, chú có nhiều chuyện để nói cho cháu nghe. Mình còn có nhiều thời gian với nhau mà. Bây giờ chú giả bộ làm nhà báo phỏng vấn, cháu cứ việc trả lời. Được không cháu?”
Cô gái trả lời ngay:
“Được chứ sao không được!”
Nói xong cô mới biết mình hố, hơi giật mình một cái, trừng mắt nhìn ông Khê, chờ đợi.
“Nào, để mở đầu cuộc phỏng vấn nhé. Cháu về lại Việt Nam được mấy năm rồi? Liệu có được đi Mỹ nữa không?”
“Chú xạo lắm. Đánh lừa cháu hả? Thôi được, lần này cháu chịu thua. Để cháu tính thử, 95, 96… năm nay 2002. Trời ơi là trời, mới đó mà đã hơn sáu năm rồi. Mấy đứa ở đảo cùng lượt với cháu rời đảo trở lại Việt Nam, nay phần lớn đã định cư ở Mỹ. Tụi nó đi theo diện tái định cư rô vơ rô viếc gì đó, đi từ hồi 98, 99. Chỉ có cháu kẹt ở lại.”
“Rô vơ rô viếc là cái gì?”
“Là chữ viết tắt ROVR. Để cháu cố nhớ xem nào, Resettlement of Việtnam Re… Re… cái gì đó, cháu quên mất. Chương trình của ông John McCain đó mà, chắc chú có biết chứ.”
Ông cũng có biết một phần nào về trường hợp của Thi qua lời thuật lại của người làm cũ của bà dì, nhưng ông còn nhiều điều thắc mắc. Cô bé này khá rắc rối đây, ông thầm nghĩ. Mình phải nói làm sao cho thuận tai nó trước đã, rồi dẫn dụ nó vào câu chuyện của mình.
“Đó là cháu muốn ở lại Việt Nam, chứ kẹt gì mà kẹt. Theo chú biết, tất cả những trường hợp như cháu đều được giải quyết tốt đẹp, nghĩa là tất cả đều đi Mỹ, không sót một ai. Nhất là hoàn cảnh của Thi, phái đoàn phỏng vấn sẽ chấp thuận ngay.”
“Thế là chú đã biết hết trơn hết trọi mọi chuyện về cháu rồi,” Thi đáp lại một cách cau có, “còn hỏi cháu làm chi cho nhọc xác! Thôi, tối rồi, có lẽ đi ăn là vừa, nếu chú không chê mấy cái quán bình dân cháu sắp dẫn chú đến.”
Ông cười gượng:
“Chú lại nói sai! Tưởng rằng nói như thế sẽ làm cháu vui lòng, không ngờ làm cháu giận. Chú xin lỗi.”
Bỗng ông đổi hẳn thái độ, không còn muốn pha trò cho vui câu chuyện với cô bé lắm điều. Ông ngập ngừng:
“Một người đàn ông… lại là người đàn ông đã lớn tuổi… đem chuyện riêng của mình đi kể lể với cô gái đáng tuổi con của mình… thấy cũng kỳ… phải không cháu. Nhưng chú không có cách nào khác. Bây giờ gặp cháu… mà chú không hỏi được gì về mẹ cháu, rồi nay mai chú lại ra đi… chú sẽ buồn hết sức. Có lẽ cháu cũng đã biết không ít thì nhiều câu chuyện giữa mẹ cháu và chú. Hồi đó, chưa có cháu… chú… tuổi trẻ đầy nhiệt huyết mà, chú bỗng dưng bỏ mẹ cháu đành đoạn, theo người ta đi vào rừng, không kịp nói một lời từ biệt…”
Cô gái nhanh nhẩu ngắt lời:
“Vậy mẹ cháu muốn tìm chú thì phải lủi vô rừng chứ sao lại xông ra ngoài biển, để cuối cùng…”
“Chuyện còn dài lắm.” Ông lắc đầu.
Cô gái lại chen vào:
“Dài bao nhiêu cháu cũng sẵn sàng nghe. Chú cứ việc kể hết đi.”
Ông cười gượng, cầm chai bia dốc ngược uống cạn, rồi thong thả nói:
“Hồi chú đi dạy học, có một người bạn thân dạy cùng trường, người Gò Công. Ông già của anh ấy có mấy chiếc ghe đánh cá ở biển Tân Thành.”
“Chú, chú. Biển Tân Thành ở đâu?”
“Bãi biển này thuộc Gò Công, nhìn qua phía đông thấy Vũng Tàu. Vào những ngày cuối Tháng Tư, 75, Sài Gòn hoang mang, ngơ ngác, hỗn loạn. Trường học, công sở, phần lớn đóng cửa. Mẹ cháu đang học năm thứ nhất trường Dược vội về Bến Tranh. Ông già ngày réo gọi, đêm réo gọi, không về sao được. Chú cũng muốn đi theo mẹ cháu, nhưng thấy bất tiện quá, vì mẹ cháu và chú chưa, chưa…”
Cô gái có vẻ thích thú reo lên:
“Thôi, chú khỏi phải nói tiếp. Hai người yêu nhau thầm lén du dương chứ gì. Chưa thành thật khai báo với ông già? Chú kể nữa đi.”
“Trước đó mấy ngày, mẹ cháu, chú, và người bạn có bàn với nhau rằng… tình hình căng thẳng quá. Có người sợ cộng sản đã trốn khỏi nước bằng máy bay, hoặc thuyền đánh cá. Nhiều công ty Mỹ và ngoại quốc đã di tản nhân viên đi qua Thái Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nhật Bản v.v… thì nếu kẹt quá, mẹ cháu, chú, và gia đình người bạn sẽ xuống Gò Công, ra biển Tân Thành, dong thuyền đi vòng về Cần Thơ. Miền Tây lúc đó chưa mất một tình nào cả. Có tin đồn chánh quyền, quân đội, sẽ dời về đó củng cố lại lực lượng kháng cự.”
“Ô, thì cháu đoán ra rồi. Chú bảo chú theo người ta vô rừng. Mẹ cháu đâu có ngờ, lại tìm chú ngoài biển như cháu đã nói trên kia. Chú nhớ cháu đã nói như vậy chứ.”
“Có lẽ là vậy. Chú ân hận mãi về chuyện đó.”
“Cháu đoán thêm nữa nhé. Mẹ cháu xuống Gò Công không gặp được ai quen cả. Đành phải chờ, như người nằm ngửa cổ há miệng chờ sung rụng. Sung cũng có rụng đó, nhưng nó văng ra ngoài đất cả, mẹ ạ. Hết năm này qua tháng khác, tội cho mẹ quá. Rồi vượt biên đi tìm người yêu đã lạc đường trên cái thế giới rộng mênh mông này. Biết mô mà tìm. Cháu nói chữ mô có đúng tiếng miền Trung của chú không. Quả là mẹ cháu đã điên cái đầu, không thèm suy nghĩ kỹ về hành động của mình, chỉ vì thương nhớ chú quá.”
Ông chăm chăm nhìn cô gái. Dường như con nhỏ lắm mồm mép này giỏi nói láo nên khó phân biệt khi nào láo khi nào thiệt. Lúc nào thành thật, lúc nào giả dối. Nhưng dường như cũng có chút xúc động, hay oán trách, trong giọng nói, vẻ mặt, và dáng điệu. Ông đành nén lòng trả lời:
“Chú… mấy mươi năm trời chú bị ám ảnh về hoàn cảnh má cháu. Và vì vậy, chú chỉ muốn biết thêm vài chuyện, cháu… cháu giúp… chú, được không cháu?”
Cô gái chau mày, nhìn nghiêng nghiêng, đặt chai bia chưa kịp uống xuống bàn, cầm lấy ly nước lạnh còn một nửa đã tan hết đá uống từng ngụm nhỏ như cố nén xúc động. Nhưng, như vừa sực tỉnh, cô lại xảnh xẹ hỏi:
“Chú muốn biết thêm vài chuyện, mà chuyện gì mới được chứ?”
“Chú muốn biết mẹ cháu đã qua đời như thế nào, nghĩa là trong hoàn cảnh… trong trường hợp nào. Chú muốn biết để, để… Để làm gì chú cũng không biết rõ nữa. Vâng, để nhận ra được rằng chú đáng trách đến dường nào.”
“Hồi đó cháu còn nhỏ lắm, mới chín mười tuổi,” cô gái có vẻ bớt gay gắt, “có nhiều chuyện cháu chẳng biết đâu vào đâu. Chú hỏi ác ôn như thế cháu trả lời sao nổi.”
Ông năn nỉ:
“Thì cháu cứ nhớ gì nói nấy.”
“Nhớ? Nhớ nhiều chuyện lắm. Nhưng toàn là những chuyện không ăn thua gì tới chú thì nói làm chi. Vâng, cháu cũng biết rằng… cháu phải nói chuyện này một lần cho nó xong, rồi cháu sẽ không bao giờ nhắc lại nữa. Mẹ thì cứ bảo cháu sống để dạ, chết mang đi, đừng nói cho ai biết chuyện gì đã xẩy đến với mẹ con mình, nếu cháu muốn, muốn, muốn ngươì ta… Khó nói quá chú ơi! Nhưng hình như, theo cháu, bất cứ chuyện gì dù khó nói đến mấy cũng phải đem ra chia sẻ ít nhất là một lần với một người nào đó. Chứ giữ kín trong lòng nó sẽ làm mình thúi ruột, như cái nhọt không được nặn ra.”
“Cháu nói thế là phải lắm,” ông tiếp lời. “Chẳng hạn chú cũng sẽ cho cháu biết mọi chuyện xẩy ra giữa chú và mẹ cháu, nhất là trong hoàn cảnh nào chú đã bỏ mẹ cháu ở lại một mình.”
Cô gái cười gằn rồi nói dóng dả từng tiếng một:
“Nhưng thưa chú, chú đừng vội… Vấn đề là nói cho ai nghe đây? Vấn đề là chọn người để nói. Tại sao cháu phải kể cho chú nghe thay vì kể cho một con bạn thân nào của cháu nghe? Phải biết chọn mặt gởi vàng chứ.”
Nó cùng mẹ ở với bố tại một làng đánh cá tại Thái Lan.
Về sau nó được người ta nói cho biết rằng, trong chuyến vượt biên, chiếc ghe tí hon trên đó có mẹ nó bị hải tặc tấn công nhiều lần. Lúc đó chưa có nó trong đời này, hay ngay cả trong bào thai của ai. Tụi hải tặc hãm hiếp, giết người, cướp của, không tha một ai. Mẹ đẹp lắm. Đẹp là cái họa. Mẹ bị… rồi còn bị bố bắt mang theo chứ không bị ném xuống biển như những người khác. Rồi mẹ sinh ra nó.
Mẹ thù ghét bố, nó sợ bố. Cuộc sống địa ngục. Cứ thế, khi nó gần mười tuổi, đã hiểu biết đôi chút, thì biến cố khủng khiếp xẩy ra.
Một hôm mẹ đi phụ đan lưới, phơi cá, chùi ghe. Không như mọi ngày, mới nửa buổi mẹ đã về, vì mẹ bị trúng gió, cảm lạnh. Khổ thân cho mẹ. Về đến nhà, mẹ bắt gặp bố đang cố làm chuyện đó”với nó. Lần đầu. Nó vùng vẫy, mà không dám la hét, khóc mà không ra tiếng. Bố mọi ngày trông đã dễ sợ, hôm đó trông không khác gì con quỷ dữ. Mẹ vứt cái rổ cá xuống đất, xông vào. Bố buông nó ra, xoay người co chân đạp mẹ văng ra khỏi cánh cửa liếp. Mẹ cố gượng dậy, mặt méo xẹo, cúi gập người, tay ôm bụng, lại lủi tới xông vào một lần nữa, thì bố, đã quần áo đàng hoàng, nắm lấy tóc mẹ quấn quanh cột nhà mấy vòng. Tóc mẹ dài, cái cột tre nhỏ, cái đầu của mẹ dính cứng vào cột tre, mặt ngửa lên nhìn trần nhà, mắt ráo hoảnh. Bố nắm hai bàn tay lại thành nắm đấm, dộng mạnh vào mặt, vào ngực của mẹ. Từ miệng, từ mũi của mẹ, máu tuôn ra chảy xuống cằm, xống cổ. Lạ quá, mẹ cũng như nó, không khóc, không la, chỉ vung tay đạp chân vào khoảng trống trước mặt. Dảy nút áo của mẹ sổ tung. Bố đứng sửng nhìn một chốc, rồi cười gằn, rồi sấn tới, lột toạc áo mẹ ra. Trời Đất ơi! Phật Thánh ơi!
Hàng xóm nghe tiếng động rầm rầm, chạy đến can. May quá, nếu không, chắc mẹ bị đánh chết.
Nó không rành tiếng Thái. Nó không có bạn bè con nít như những đứa khác. Mẹ nói tiếng Thái giỏi hơn nó nhiều, và chỉ dạy nó tiếng Việt từ thuở bé. Nhưng nó cũng hiểu một phần nào những tiếng la hét của bố với hàng xóm. Bố nói rằng mẹ là đồ thối tha trời đánh, rằng mẹ không chịu làm vợ thì bố sẽ bán mẹ cho đi làm vợ của nhiều người cùng một lúc. Ai có tiền muốn mua mẹ ngay bây giờ cũng được. Bằng không, sớm muộn gì bố cũng sẽ giết chết mẹ. Rằng lỡ sinh ra đứa con gái chết dịch này thì phải nuôi, được ngày nào hay ngày ấy mà thôi. Mà chắc gì nó là con của tao đâu! Hôm đó cũng có phần xía vô của mấy thằng trong bọn chúng mày mà.
Mẹ đẹp. Đẹp lắm. Nhưng mẹ không bao giờ vui. Mẹ thường nhắc tới Bến Tranh, tới Ba, tới Dì. Cũng thường nhắc tới một ông nào đó — có lẽ cái ông lèng èng này — mà hễ mẹ nhắc tới ổng, mẹ lầm rầm những gì trong miệng nó không tài nào nghe được.
Mấy hôm sau đó, khi bố đi quán rượu, mẹ bảo nó cùng mẹ đi biển theo ghe của ông già ở cuối xóm, chứ không đi biển với bố như mọi khi. Ông già râu tóc bạc phơ, mặt mày không dữ bằng bố, thường đến hỏi thăm và cho mẹ uống thuốc sau trận đòn ghê khiếp đó. Trên ghe ông già có bàn thờ Phật.
Đi được nửa ngày, nó thấy xa xa chiếc tàu sắt to như chưa bao giờ nó từng thấy. Bỗng mẹ la thất thanh. Ông già hoảng hốt quay nhìn. Ghe của bố đang tiến nhanh tới. Bố dữ hơn con cọp, cặp ghe sát cánh ghe ông già, nhảy vọt qua, lấy mái chèo phụ nện bốp bốp vào đầu ông già, máu phun ra có vòi. Ông nằm dài hết nhúc nhích, chắc là hết sống nổi. Mẹ chạy trốn quanh khoan chiếc ghe nhỏ, làm sao chạy cho thoát. Mẹ trợt chân té nhào xuống biển chìm nghỉm. Nó sợ quá, chết ngất.
Khi tỉnh dậy, nó biết nó đã nằm yên ổn trên cái giường có lót tấm trải trắng tinh mà nó chưa bao giờ thấy, trong chiếc tàu khổng lồ. Nó mê đi, rồi nó tỉnh lại, rồi nó lại mê, cứ thế kéo dài đến mấy tháng trời. Bình phục dần, cuối cùng nó mới biết nó đang ở trong bệnh xá của một hòn đảo dành cho người tỵ nạn.
Nó tưởng nó phải chết theo mẹ, thế mà nó cứ sống, lớn lên dần, đẹp ra dần. Nhưng sao đẹp bằng mẹ đuợc, nó biết rõ thế.
Thêm bảy năm ở đảo, Thi trở thành cô gái quyến rủ, cô hoa khôi. Trong thời gian đó nhiều chuyện tình ái hỗn loạn xẩy ra cho cô và cho nhiều người khác nữa. Đẻ đứa con trai, không biết ai là cha. Cô gái xem bọn đàn ông toàn là đồ khốn nạn. Sau đem con cho một bà xơ của một phái đoàn Cao Ủy. Cô cố quên thằng nhỏ! Bà xơ thuyên chuyển đi nơi khác, mang đứa bé theo, biệt tăm. Cô tiếp tục gây nhiều tai tiếng. Rồi đến thời gian được phỏng vấn để tái định cư, cô khai báo lung tung, bịa đặt nhiều chuyện tưởng là có lợi, bị tống xuất về Việt Nam, không được cho đi Mỹ như những người khác.
Mình lại phải nói hết sự thật cho cái ông cà chua cà chớn này nghe hay sao? Còn lâu!
Thuận tay cầm chai bia đã uống cạn, vô tình dốc ngược. Không còn giọt nào cả. Ông liếc nhìn cô gái, nói giả lả:
“Đắng mà ngon.”
“Chú nói cái gì lạng quạng vậy?” Thi phụ họa bằng một nụ cười thật tươi. “Đắng hả? Cái gì đắng? Cái gì ngon?”
“Bia đắng.”
“Trật lất. Bia Sài Gòn còn khuya mới đắng. Chú có nói lộn không. Cháu có nghe nói bia đắng nhập từ bên Anh, bên Đức. Tại Sài Gòn này, nhà hàng sang mới có bán bia đó. Bia cháu đãi chú là bia vỉa hè.”
Ông cười trừ:
“Ừ thì không đắng.”
“Sao chú bảo đắng? Hay chú muốn mắng xéo cháu?”
“Làm sao chú có thể mắng cháu được. Khen thì có.”
“Khen như thế nào, chú cứ nói thẳng ra xem sao? À, này, này, chú! Cháu trông có giống mẹ cháu ngày xưa không? Mẹ đẹp lắm!”
Ông lại cười:
“Nghĩa là cháu muốn nói rằng cháu đẹp lắm? Vâng, cháu giống mẹ cháu như hai giọt nước.”
“Chú cũng biết nịnh đấy, nhưng chú lại nói không đúng rồi. Cháu đẹp không bằng một góc của mẹ cháu, cháu biết rõ điều đó. Giống thì có giống đó. Lại có chỗ giống rất kín đáo, chú không biết được đâu.”
Ông hắng giọng:
“À,… ằm, à, cháu nói phải để dành câu chuyện… à… à… hồi nãy cháu nói cháu phải chọn người để cháu kể chuyện cho nghe… chọn mặt…”
Thi cướp lời:
“Chọn mặt gởi vàng. Chú lại muốn trở lại câu chuyện đó? Dai đến thế là cùng. Dai như…”
“… chó nhai giẻ rách?” ông tiếp.
“Mô Phật! Đó là chú tự… tự…”
“Tự thú?”
Cô gái nghiêng mặt lườm ông:
“Chú lại giận cháu? Người đâu mà dễ giận như thế. Thôi được, để chuộc tội, cháu sẽ kể chuyện cho chú nghe. Câu chuyện lâm li bi đát, nhưng kể vội mất hay. Chi bằng đi ăn cái đã, xong rồi chuyện với trò. Nhé, chú nhé, chiều cháu một tí đi. Ngoan nào!”
Không chờ ông trả lời, cô gái đứng dậy đến dẫn chiếc xe Honda hai bánh ra khỏi cửa. Ông đứng dậy đi theo.
Khác hẳn căn phòng bề bộn, luộm thuộm, và dơ, chiếc Honda hai bánh sạch bóng, hiệu Dream. Yên xe dài liền lạc cho hai người ngồi, không có chỗ vịn tay ngăn cái yên ra làm hai như ở nhiều chiếc Honda khác.
Thi dựng xe, đến khóa trái cánh cửa, rồi trở lại choàng chân phải qua chiếc xe, ngồi ngay ngắn, thẳng người, rú máy, không ngoảnh mặt lui, chờ. Ông cũng choàng chân phải qua chiếc xe, hai tay loay hoay tìm chỗ vịn đằng phía sau lưng ông để ngồi cho vững. Ông ý tứ không chạm vào người cô gái.
“Ngồi xong chưa chú?”
“Xong.”
“Cẩn thận nghe chú. Cháu ưa lạng lắm.”
Xe chạy nhanh trên nhiều đường phố Sài Gòn. Ông giật thót mình nhiều lần, nghĩ rằng xe sắp đụng phải hàng trăm chiếc xe hai bánh khác, hoặc lủi vào người đi bộ, hoặc sắp bị xe hơi chạy ẩu tông vào. Ông toát mồ hôi hột. Nếu ông dùng hai tay ôm choàng quanh bụng cô gái thì ngồi sẽ vững vàng hơn nhiều. Đằng này ông phải gồng mình giữ hai tay nắm chặt phần sau của yên xe. Cũng may hai bàn chân ông có chỗ tựa.
Xe chạy quanh co khi thì trên những đường phố rộng thênh thang, đèn đường sáng trưng, khi thì lượn vào những ngõ hẻm tối tăm, bẩn thỉu, hôi hám, trông lạ hoắc. Ông đã cố gắng hết sức nhưng nhiều lần, ở những chỗ ngoặt, những cái đạp thắng đột ngột khi cô gái cố tránh xe khác, khiến người ông chồm tới trước, cằm ông dí lên vai của Thi, mũi ông ngửi mùi son phấn, mùi tóc, mùi da thịt thanh xuân.
Cuối cùng xe dừng trước một quán cháo vịt đông nghẹt người ăn. Có cả trăm người hơn. Thi dựng xe trước mặt quán, lấy thẻ gởi xe, rồi đi đến cạnh một bàn còn trống, ông đi theo sát. Cô gái thở phào nói:
“Đây, cháo vịt Thanh Đa đây. Ngon có tiếng.”
Ông hỏi:
“Tại sao phải lấy thẻ gởi xe? Mình ngồi ngay đây mà.”
“Cũng phải lấy thẻ và trả tiền gởi xe như thường.” Thi đáp. “Chỗ đậu xe không thuộc về chủ quán.”
Nhiều người ở những bàn khác quay đầu lại nhìn chăm chăm vào ông và nhất là nhìn vào cô gái.
“Chú ơi,” Thi đứng sát người bên ông thì thầm, ông nghe hơi ấm toát ra từ trong giọng nói. “Người ta tưởng chú và Thi là hai vợ chồng đó.”
“Bậy nào!”
“Không bậy đâu. Ở xứ này bây giờ chồng già vợ trẻ nhiều lắm. Cháu đi với chú không cân đâu.”
Ông nhún vai:
“Thì làm sao mà cân được.”
Thi cười tủm tỉm:
“Có lẽ chú chưa hiểu cháu muốn nói gì.”
“Có gì đâu mà khó hiểu. Thế cháu nuốn nói gì?”
“Cháu muốn nói là cháu đã quá ‘đát’. Nghĩa là cháu già quá so với chú!”
Ông im lặng tỏ vẻ khó chịu vì cái lối đùa quá trớn của cô bé. Như đọc được ý nghĩ của ông, Thi vui vẻ nói:
“Chú bực mình vì cháu? Nhưng thôi, ngồi vào bàn rồi cháu kể chuyện này chú nghe. Vui lắm.”
Hai người ngồi xuống cái bàn thấp cách mấy cái bàn kia một lối đi nhỏ. Có lẽ vì cô gái đẹp lại có ông không còn trẻ đi kèm, ông nghĩ, nhiều người cứ trố mắt nhìn theo, không chút giấu diếm.
“Nào, chuyện vui gì hả Thi?”
“Có một ông đạo diễn xi nê hơn 70 tuổi đi cặp với một bà xồn xồn trên dưới 40. Bạn bè gặp liền nói, ‘Chào anh chị ạ’. Ổng lễ phép trả lời, ‘Xin lỗi, tôi xin giới thiệu đây là bà mẹ vợ của tôi. Tôi cưới nhà tôi mới hơn tháng nay.’ Chuyện thật một trăm phần trăm, ở đây ai cũng biết đó chú. Chú thấy chưa, cháu quá già so với chú!”
Ông cảm thấy khó chịu vì đám thực khách cứ trố mắt nhìn hai người. Ông nói nhỏ:
“Cháo vịt chú thích lắm. Nhưng chú không thích chỗ đông người như thế này. Cháu chiều chú nhé, đưa chú tới nơi nào vắng vắng một chút? Và cháu chạy chậm chậm bớt một chút. Lỡ té.”
“Té sao được! Có chú ngồi sau lưng để làm chi. Có gì chú không biết lấy chân chống à! Còn đi một mình thì cháu luôn luôn đội nón bảo vệ, có té cũng không sao.”
“Có chú cháu cũng nên đội nón cho chắc ăn.”
“Đội gì mà đội! Không đời nào! Đội nón vào làm sao nghe được chú nói chuyện. Cháu thấy chú chồm tới hoài. Cháu đội nón để chú nói cho cái nón nghe chắc?”
“Vâng, thì không đội nón. Bây giờ đi đi cháu. Sao có nhiều người bất lịch sự đến thế. Cứ nhìn trừng trừng vào chú cháu mình một cách ngang nhiên.”
“Thì cháu đã nói rồi mà. Họ nghi mình… Mặc xác họ. Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Thôi được, chú muốn đi chỗ khác thì đi. Ngồi sau tha hồ ngắm nhé… Sài Gòn ban đêm hấp dẫn lắm. Cháu sẽ chạy đi nhiều nơi cho chú tha hồ rửa mắt. Bến Tàu, Tân Thuận, Khánh Hội, Nhà Bè rồi vòng về Phú Lâm, Đầm Sen. Đầm Sen hết sẩy. Như coi xi nê… Coi xi-nê gì hả? Xi-nê con heo. Coi ngươì ta hủ hóa. Đuợc không?”
Ông nhìn đồng hồ. Hơn chín giờ tối. Ông nhìn lưng cô gái. Thi ngồi thật thẳng người, đẹp. Gió mát rượi thổi bay phật phật cái áo gió không cài khóa kéo của Thi, thổi rung rung những lọn tóc ngắn, thổi vào ông mùi hương con gái mà rất lâu ngày ông mới có dịp gặp lại. Quá gần gũi. Ông nghĩ nhiều đến Thủy. Ông chồm người tới nói to cho Thi nghe:
“Đẹp quá Thi.”
Không ngoảnh lại, cô gái hỏi:
“Cái gì đẹp?”
“Hả? Vâng, cái gì cũng đẹp. Thi biết không, ngày xưa chú cũng thường chở mẹ cháu đi dạo quanh quanh Sài Gòn ban đêm như thế này. Mẹ cháu cũng biết lái xe Honda nhưng luôn luôn đòi ngồi sau. Bây giờ lại đến phiên chú ngồi sau lưng cháu. Cuộc đời xoay vần lạ lùng.”
“Chú nói cái gì? Gió thổi mạnh cháu không nghe rõ.”
“À, à… Chú nói chắc cháu đói bụng rồi, chạy hoài như thế này sao được. Ghé lại nơi nào ăn đi cháu.”
Thi cười ròn quay đầu nhìn ông một cách nghịch ngợm:
“Thiệt vậy hả? Vừa rồi chú nói như vậy hả? Cháu nghe có khác khác đó.”
Cuối cùng cô dừng xe trước một khách sạn sang trọng trên đường Võ Thị Sáu, ông nhớ trước kia tên là đường Hiền Vương thì phải. Dựng xe và lấy thẻ gởi xe xong, cô gái mỉm cười nhìn ông:
“Đây là khách sạn kiêm nhà hàng. Nghĩa là… nghĩa là thức ăn không phải là chính, ngủ mới chính, nhưng đồ ăn cũng nhiều. Đồ Tây, đồ Tàu, đồ Thái, đồ Triều Tiên, đồ Nhật, đều có. Chỉ thiếu đồ Việt Nam. Nếu cháo vịt thì cháu đã định hy sinh trả tiền gọi là để đãi khách Việt kiều, nhưng ăn uống trong này chú phải trả. Mắc lắm đó.”
Ông thở dài nhẹ nhỏm. Hai người chọn một cái bàn ở góc phòng. Máy lạnh chạy rì rầm, êm êm, tiếng dương cầm từ phòng bên cạnh dìu dặt văng vẳng đưa tới. Ướt Mi, rồi Lời Buồn Thánh, rồi Hạ Trắng, rồi vài bài khác, rồi Chiều Một Mình Qua Phố, rồi một bài lạ, rồi Ru Ta Ngậm Ngùi, rồi Bống Bồng Ơi.
Sài Gòn thích nhạc Trịnh Công Sơn, ông ngẫm nghĩ. Thi cũng ngồi im lặng nghe một cách rất chăm chú. Nét mặt êm ả lạ thường. Thỉnh thoảng cô hát theo, thầm thì… Còn mưa trong đêm nay – Lòng em buồn biết mấy… Bước chân em về nào anh có hay – Gọi em cho nắng chết trên sông dài…
Ông ngồi ghế đối diện kín đáo nhìn cô gái. Ông lại nghĩ thầm cô bé này nếu bớt quỷ quái một chút, nếu trầm tĩnh thêm một chút, sẽ hay biết mấy, sẽ giống mẹ như khuôn tạc. Ông nhớ đã nghĩ như thế nhiều lần. Mẹ với con sao lại có thể giống nhau như thế! Lòng ông dịu lại. Ông có cảm tưởng mình đang sống lại thời trẻ ba mươi năm về trước cùng Thủy, những lúc trong túi có chút tiền, kéo nhau đến Đêm Màu Hồng, Queen Bee, Mỹ Phụng, Tự Do… Ít tiền thì Đồng Khánh, Lệ Uyển dưới Chợ Lớn. Ngồi nhìn nhau thật lâu, rồi bước vào sàn nhảy, rồi trở lại chỗ ngồi tay nắm tay ngồi lâu hơn, rồi nghe hát.
“A cái ông này!” Thi cười ròn. “Đang ngắm Thi hả? Nghe nhạc đi chứ!”
Ông hơi giật mình, đáp:
“Chú đang nghe đây.”
Có tiếng lao xao. Ông quay đầu nhìn ra cửa chính. Những du khách ngoại quốc đang lục tục đi vào. Âu, Mỹ, Á. Ông chép miệng nói một mình:
“Người ta đến Sài Gòn làm gì mà đông thế!”
“Đông chứ sao không đông,” cô gái chen vào. “Nhưng độ này đã giảm nhiều, còn lại một phần ba là cùng. Trước kia không đủ khách sạn cho du khách ở, họ phải lò dò tìm đến nhà dân, rồi xí lô xí la nhặng cả lên.”
“Cháu biết nhiều chuyện quá.”
“Biết chứ sao không biết. Người ta nói vậy, bộ cháu không có lỗ tai để nghe hay sao?”
Điệu nhạc vẫn dìu dặt, buồn buồn, êm êm. Cô gái nói tiếp:
“Chú biết nhạc của ai đó không?”
“Chú có biết mấy bài của Trịnh Công Sơn. Mấy bài kia, lạ.”
“Để cháu nói cho mà nghe. Cháu thích nhạc lắm nên cháu biết hết. Mới vào trong phòng này là cháu đã theo dõi kỹ rồi. Này nhé, Sau Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn là Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, rồi Trống Vắng. Sau Chiều Một Mình Qua Phố cũng của Trịnh Công Sơn là Lối Cũ Ta Về. Còn bây giờ là bài Mưa Ngâu của Thanh Tùng.”
“Cháu giỏi quá.”
“Giỏi chứ sao không giỏi. Cháu còn muốn làm ca sĩ nữa đó nhưng, nhưng… nhưng cháu ghét cái thằng ông bầu quá cho nên cháu chưa được nó cho đi hát. Cháu thì thích nhạc, còn chú, đàn ông như chú, lại thích đàn.”
“Cái đó còn tùy.”
“Chú coi bộ thích hai chữ ‘còn tùy’. Cái gì cũng tuỳ, tùy. Cháu thì thấy đàn ông ai cũng thích đàn chứ ‘còn tùy’ gì nữa. Coi cái bộ của chú, chắc chắn chú cũng không phải là một ngoại lệ.”
“Cháu nói gì chú không hiểu. Thích đàn? Đàn gì?”
“Thôi, chú đừng vờ nữa.” Thi cười to, tiếng cười trong veo. “Đàn gì hả? Đàn bà!”
Ông chau mày, nghiêm giọng:
“Cháu tấn công tới tấp, chú không biết đường nào để chống đỡ. Chú xin thua.”
Anh hầu bàn trẻ tuổi, mặt mày sáng sủa, đồng phục lòe loẹt, mang hai cái thực đơn đến và đứng thẳng người cạnh bàn, chờ. Ông bảo Thi chọn món ăn. Cô gái hất hàm nói với người hầu bàn:
“Anh để cho chúng tôi thư thư một chút có được không nào? Mười lăm, hai mươi phút nữa chúng tôi mới… mới đói bụng.”
“Thế ông… ông bà uống cái gì trước nhé.”
“Cái gì vậy?” Cô gái nói như gắt. “Chúng tôi cũng chưa khát, được không?”
Anh hầu bàn ngoảnh mặt đi nhanh.
Ông nhìn chăm chăm vào đôi mắt “phượng” của cô gái, thẩn thờ nói:
“Cháu của chú ghê quá!”
Cô quay lại quắt mắt nhìn ông:
“Ghê! Ghê nghĩa là gì? Nghĩa là cháu trông giống như con chằn tinh? Thì đã sao?”
“Thi, đừng giận oan. Chú khen chứ không phải chê đâu. Chú đi lâu ngày đã phần nào quên cả tiếng mình, dùng chữ không đuợc đúng. Nhưng chú rất ngạc nhiên thấy cháu… mới ở Việt Nam năm sáu năm là cùng, mà nói tiếng Việt rất sành, rất hay, rất… rất có duyên.”
Cô gái vui vẻ lại ngay, hất hàm, nghiêng đầu, một phần của mái tóc dài rủ xuống che bớt khuôn mặt xinh đẹp, liếc mắt nói, tiếng nói kéo dài, uốn éo:
“Không dám đâu. Ở đó mà có duyên!”
“Cháu nói cái gì vậy?”
“Thi nói chú ngoài miệng nói vậy nhưng nghĩ khác. Cháu ở đảo về đây cũng được khoảng bảy năm rồi chứ ít sao. Mà hồi nhỏ cháu cũng được mẹ dạy tiếng Việt. Hồi đó chỉ có hai mẹ con nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, mọi người đều nói tiếng Thái. Mẹ không dạy cháu tiếng Thái, nhưng cháu cũng nói được, cũng hiểu được, chút chút… Rồi đến đảo ở, nói chuyện lia chia với đủ hạng người. Chú nghe thì biết, cháu nói pha đủ giọng Trung Nam Bắc loạn cào cào. Ở đảo, cháu còn tới nhiều lớp học nữa. Học Tâu, Lai, Hâu, học tiếng Việt, tiếng Anh, học nữ công, gia chánh. Học nhạc.”
“Học Tâu, Lai , Hâu là học cái gì?”
“Là Toán, Lý, Hóa đọc theo lối Mỹ. Chẳng là — Thi chuyển qua giọng Bắc — ở đảo vẫn có những bảng quảng cáo dán vào gốc cây, vào cửa sổ, vào cổng trại, ba chữ Toán, Lý, Hóa. To đùng, ở đâu cũng nom thấy. Một ông thầy Mỹ cứ tưởng đấy là quảng cáo cho một món hàng thông dụng, hay món ăn, mới hỏi cháu món hàng gì thế.”
“Chú thật không ngờ. Ở đảo cũng học được nhiều môn thế hả cháu? Và thầy giáo thì sao, có đủ thầy dạy không?”
“Thì mấy thầy là mấy chú vượt biên tỵ nạn chớ ai vào đó nữa. Họ là thầy giáo cũ, qua đảo đi dạy thì đỡ phải đi làm việc khác. Vừa oai, vừa sướng. Nói đúng ra cũng có thêm mấy ông thầy của Cao Uỷ. Cuối tuần cũng được nghỉ học, thỉnh thoảng cũng có ngày lễ, cuối năm cũng có Tết nữa.”
“Tết nữa? Nhưng Tết tây hay Tết ta?”
“Tết tây Tết ta đều có. Mình là người Việt vượt biên ăn Tết ta vui hơn. Tết đến trên đảo xanh — Xuân về dưới cát trắng.”
“Thơ Thi làm hả?”
“Cháu tên Thi nhưng không biết làm thơ. Biết hát thôi. Đó là câu đối của cái ông thầy dạy Việt Văn.”
“Nhưng sao lại ‘xuân về dưới cát’?”
Thi nhanh nhẹn trả lời:
“Dưới cát đối với trên đảo. Chưa hết, ông thầy còn nói làm gì có mùa xuân trên đảo. Cho nên xuân chui xuống dưới cát. Nói như vậy có đúng không chú?”
Ông cũng nhanh nhẹn trả lời:
“Thầy nói thì có bao giờ sai đâu.”
Cảm thấy vui vui trong lòng, ông tò mò hỏi thêm:
“Chắc cháu thích Tết lắm?”
“Chú hỏi lạ chưa, thích chứ sao… không thích,” Thi bỗng dưng đáp uể oải. “Người ta nói hết thích Tết là đời tàn trong ngõ hẹp. Cho nên cháu phải thích Tết để đời cháu chưa tàn. Mà Tết ở Sài Gòn lẽ dĩ nhiên còn vui hơn ở đảo nhiều…”
Giọng nói của cô gái đổi hẳn, nghe xa vắng, đều đều, trầm trầm.
“… Cháu thích thiệt dù cháu không biết giải thích tại sao cháu thích. Chứ không phải thích vì muốn đời chưa tàn như cháu vừa nói đâu. Nói vậy mà không phải vậy là vậy đó chú. Có lẽ là nhờ được nghỉ ngơi mấy ngày, được ngắm thiên hạ sửa soạn nhà cửa, mặc áo mới, tiêu xài rộng rãi. Rồi cùng vài đứa… hoặc nếu tụi nó bận, một mình đi xem chợ hoa, chợ bong bóng, chợ đồ chơi con nít, chợ áo quần. Ngó chơi thôi chứ không mua cái gì cả. Tiền đâu. Với lại cái phòng cháu cũng không cần trang hoàng, chưng dọn như mọi người. Chưng dọn làm gì, chưng dọn cho ai? Mà có chưng dọn được không! Rồi đi chùa chen nhau hái lộc, ngửi nhang, trầm, nghe chuông, mõ. Người có đạo đi nhà thờ thì mình phải đi chùa chứ, như hồi ở đảo. Rồi hết Tết! Rồi Tết năm sau lại diễn ra y chang như thế, vui vui được mấy ngày. Năm sáu cái Tết Sài Gòn như thế rồi. Thêm năm sáu tuổi. Ghê thật!”
Thái độ cô gái cũng thay đổi hẳn, lặng lẽ và buồn buồn. Ông nghĩ rằng rốt cục rồi ai cũng có nỗi buồn riêng, chưa có dịp nói cho người khác nghe đó thôi. Bỗng có tiếng thở dài nhè nhẹ. Ông chăm chú nhìn cô gái:
“Chuyện gì vậy cháu?”
“Chẳng có chuyện gì cả. Thỉnh thoảng cháu giở chứng thế thôi, chú đừng thèm để ý, vô ích. Nhắc đến chuyện cũ có khi cháu nổi khùng chứ không phải chơi đâu. Cứ để cho mọi chuyện nó qua đi là hơn, nhắc lại thêm rầu. Nghĩa là… nghĩa là từ rày về sau chú phải nhớ cho kỹ đấy… là đừng hỏi thêm gì về mẹ cháu nữa nghe chưa, chú.”
“Tại sao?” Ông hơi gắt.
“Tại vì như cháu vừa nói đó, bộ chú chưa già mà đã lãng tai, đã mau quên? Nếu chú còn hỏi nữa, cháu sẽ phát khùng, sẽ bịa chuyện nói láo. Bịa chuyện có gì là khó đâu.”
Cô quay mặt nhìn ra ngoài cửa lẩm bẩm nói một mình:
“Sáu năm, rồi bảy năm, rồi mười năm.”
Biết rằng có làm mặt giận cũng chẳng ăn thua gì, ông dịu giọng:
“Cháu tôi đang làm kế hoạch dài hạn cho tương lai, năm năm rồi mười năm. Đúng, cháu còn trẻ lắm, tương lai ở trong tầm tay. Chú nhớ một câu trong Kiều: Ngày xuân em hãy còn dài. Chú thì khác. Chú không thể lập kế hoạch cho cuộc sống của chú dài quá một tuần.”
Cô gái quay lại nhìn ông, cười rũ cả người:
“Chú chả biết cái mẹ… xin lỗi, cái gì cả!”
Ông ngạc nhiên thật sự:
“Thi nói cái gì lạ vậy? Chú cũng có biết chút ít chứ. Vì thế chú phải tìm cho ra cháu để chú có thể bàn bạc với cháu một vài chuyện cho tương lai, ngoài câu chuyện liên quan đến mẹ cháu. Chú biết từ ngày ở đảo về cháu đã hết sức phấn đấu, cháu chịu khó đi làm, cháu vừa làm thư ký cho một công ty Hòa Lan vừa đi làm thêm bán thời gian tại một nhà hàng Tàu vào buổi tối…”
Cô gái càng cười to, cướp lời:
“Những tin tức đó chú lượm ở đâu vậy? Nơi cái bà dì ngẩn ngẩn ngơ ngơ ấy phải không? Bây giờ cháu kể chú như là người thân nhé, chú chịu không, chịu nhé, thì… thì cháu sẽ nói thiệt hết cho nghe. Công ty hả? Công ty ma! Nhà hàng hả? Nhà hàng dỏm. Cháu phải xoay xở mọi cách để sống qua ngày. Có lúc cháu thấy nản quá. Một mình, không bà con, không bạn bè, không nhà cửa, không người thân,… ngoài… ngoài chú ra, nếu chú chấp nhận, nếu chú còn nghĩ đến mẹ cháu. Có phải không chú, chú là người thân duy nhất của cháu, nếu chú còn nhớ mẹ cháu. Mà chú đâu có ở đây mãi với cháu, phải không chú? Việt kiều về thăm quê hương, du hí, bồ bịch, rồi cuốn gói ra đi.”
Dứt câu, cô lại cười duyên, chẳng ăn nhập gì đến câu chuyện. Cô bé này thật lộn xộn, chẳng biết nó đang toan tính gì đây, ông nghĩ thầm. Nhưng ông cố kéo dài câu chuyện:
“Cháu nói đúng, chú sẽ ở lại đây thêm vài tuần nữa rồi phải trở về Mỹ đi cày… Vâng, ở Mỹ phải làm lụng căng thẳng như chú, người ta gọi là đi cày. Chú cũng thế thôi, cũng như cháu, chẳng còn ai là ngươì thân. Xứ lạ quê người, nước Mỹ rộng mênh mông, đi hết nơi này đến nơi khác, đổi chỗ ở không biết bao nhiêu lần, chưa định cư lâu ở một nơi nào cả. Nhiều lúc chú cũng chán đời lắm. Cho nên chú không muốn toan tính gì nhiều. Cứ để mọi chuyện tự nó giải quyết lấy.”
Thi nói dồn dập:
“Đó là tại chú. Lỗi tại chú tất cả! Tại chú cứ thích đi chơi đây đó. Tại chú có máu giang hồ, cháu biết thế ngay lúc mới gặp chú. Loại người rong chơi cả đời. Sao chú không ở yên một nơi, có được không. Trường hợp của cháu thì khác hẳn.”
Ông chậm rãi trả lời:
“Tại chú thích đi chơi? Để chú xem nào. Thật ra ở hoài một chỗ cũng chán, nhưng dù mình có muốn thế cũng không được. Ở Mỹ người ta phải chạy theo công việc làm, mà ít có công việc nào lâu dài hoặc cố định trong những năm gần đây. Mất việc này phải lo tìm việc khác ngay, nếu không, nhà cửa, xe cộ bị xiếc ngay, tức là bị tịch thu ngay. Là vì thất nghiệp thì tiền đâu mà đóng hàng tháng trả góp.”
“Cháu không hiểu.”
“Thế này nhé. Muợn tiền ngân hàng để mua một cái nhà chẳng hạn, và phải trả góp hàng tháng trong 15 năm hoặc 30 năm mới hết nợ. Trong thời gian đó, lỡ mình mất việc làm thì lấy tiền đâu để trả góp. Ngân hàng sẽ tịch thu nhà thôi. Cho nên khi mất việc, phải để nhà bỏ trống, hoặc cho thuê đổ tháo thế nào cho xong chuyện, rồi mình phải chạy có khi cả ngàn cây số để tìm kiếm công việc làm ăn khác.”
“Cháu hiểu rồi. Nhưng chú ở Mỹ đã lâu, có thể chú đã trả hết nợ rồi chứ. Cháu muốn nói nợ nhà, nợ xe chẳng hạn. Không lẽ làm tháng nào ăn tuốt luốt hết tháng đó.”
“Vâng, thì cũng đại khái thế, chú cũng có để dành đôi chút. Nhưng đây mới là điều chính yếu. Ở tuổi của chú, vấn đề hội nhập vào xã hội mới không phải là chuyện đơn giản. Chỉ mong gặp được nơi nào trên cái xứ sở mênh mông đó mình có thể hội nhập dễ dàng. Nhưng…”
Thi cướp lời, nói bừa:
“Cháu có nghe loáng thoáng đại khái hội nhập, ngoại nhập, dòng chính, dòng phụ, dòng trong, dòng ngoài, dòng nửa trong nửa ngoài. Nhưng cháu chả hiểu gì cả. Hội nhập với chẳng hội nhập! Được voi đòi tiên.”
Ông cau mày, nghiêm giọng:
“Ô hay cái cô này! Chả hiểu thì nghe cho hiểu. Sao cô vội phê phán thế.”
“Vâng, thì nghe cho hiểu chứ sao không nghe! Không phê phán nữa đâu. Chú cứ nói tiếp đi.”
Ông dằn lòng nói tiếp:
“Chú có quốc tịch Mỹ đã lâu, nhưng bảo rằng chú là một người Mỹ chính cống thì là một điều sai lầm. Họa chăng con cháu ba đời hay bốn đời của người tỵ nạn mới mong trở thành người bản xứ.” Ngẫm nghĩ. “Đúng ra, tình cảm của chú đối với cái đất nước hào phóng này, quê hương thứ hai này, cái xứ sở đã mở rộng tay đón nhận những kẻ lưu vong như chú… tình cảm đó ngày càng… càng xác lập thêm. Nhưng, như chú vừa nói, chú chưa phải là một người Mỹ bản xứ.”
Cô gái có vẻ sốt ruột:
“Thì cần gì biến thành người bản xứ. Mình cứ là người tỵ nạn đã sao. Được không?”
“Cháu nói nghe dễ dàng quá. Cuộc sống không đơn giản như thế đâu. Nhưng thôi, hãy gác chuyện đó qua một bên. Một dịp khác mình sẽ trở lại cái chuyện cù nhầy này. Bây giờ chú sẽ kể cho cháu nghe câu chuyện con nít này xem cháu có ý kiến gì không.”
Ông chờ phản ứng của Thi. Cô gái có vẻ quan tâm, im lặng ngước nhìn ông bằng cặp mắt trong như thủy tinh.
“Hồi còn học Trung Học, chú say mê đọc một truyện đường rừng, nhan đề là… chú quên béng mất. Đến phần kết thúc, chú thấy vô lý và chú cứ ấm ức mãi. Nhân vật chính là cô gái Mán yêu tha thiết một người Kinh. Nhưng cuối cùng cô nhớ buông, nhớ sóc, nhớ rừng, nhớ núi, đến độ cô đành phải bỏ người yêu, bỏ Hà Nội, bỏ tất cả mọi thú vui, tiện nghi của thành phố để trở về đời sống hoang dại cũ. Đại khái như thế.”
Thi ngắt lời, nói khơi khơi như không suy nghĩ:
“Cháu cũng đồng ý với chú một trăm phần trăm, câu chuyện vô lý hết sức. Tình yêu phải trên hết chứ.”
“Khoan, để cho chú nói hết. Thoạt tiên, chú nghĩ rằng tác giả cuốn sách tưởng tượng hơi nhiều và thiếu thực tế. Cho nên có phần giả tạo. Nhưng rồi chú xét lại trường hợp của chú. Hồi còn bé học ở Tiểu Học miền núi, chú thỉnh thoảng được người cậu họ cho đi theo xe chở gạo, muối, rượu trắng v.v… đem bán cho người Thượng sống tại một cái bản cách thành phố chừng ba mươi cây số. Rồi mua về nấm, mật ong, hột kê, thịt chồn, thịt thỏ. Đường đi xấu lắm, gập ghềnh, bụi bặm. Bụi đường bám đầy áo quần, tóc tai, mặt mũi. Trên đường trở về, cậu thường ghé một quán nhỏ bên đường ăn uống những món bình dân, mộc mạc, xong mua thêm những thứ lặt vặt như bòn bon, củ hành, củ tỏi, bánh ú, bánh tổ, hoặc cẳng bò thui, thịt heo rừng, thịt nai, thịt nhím, mang về cho mợ. Có một lần cậu rình bắt được một con sóc, lấy dây cột vào cổ nó, cho chú chơi. Sóc thích người lắm, chơi đùa với nó một chốc, nó thân thiện ngay. Chỉ có thế thôi, nhưng đó là những chuyến đi chú không bao giờ quên. Dính vào, rồi ở lại trong chú mãi.”
“Dính vào? Chú nói cái gì vậy?”
“À chú muốn nói những kỷ niệm chú vừa kể cho Thi nghe.”
“Mà nghe chú kể cháu cũng thấy thích. Nhưng đó là nếp sống ngày xưa. Bây giờ không còn nữa đâu.”
“Cháu nói cũng có lý. Vâng, biết bao nhiêu biến cố đã xẩy ra rồi, biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu như ngươì ta thường nói, nhưng chú luôn luôn muốn quay về với quá khứ, với nếp sống cũ, với Bến Tranh, với mẹ cháu.”
Thi có vẻ sốt ruột:
“Cháu nhớ đọc ở đâu đấy rằng con nít sống với tương lai, thanh niên thì hiện tại, già mới sống với quá khứ. Chú đã già đâu!”
“Trật lất. Tùy hoàn cảnh chứ, tùy người chứ. Mà có lẽ đại đa số con người đều giống nhau ở điểm này, là quá khứ bao giờ cũng đẹp, hay ít nhất là đã yên bề đâu vào đấy. Nghĩa là nó đã trở thành một phần của cuộc đời mình, nó như thế đó, thì tại sao mình không gìn giữ nó cho nguyên vẹn. Nhưng hiện tại thì rối rắm lắm. Mình phải như con thú rừng mở rộng tai, mở to mắt nghe ngóng, dòm ngó, đề phòng mọi phía nếu muốn sống sót. Còn tương lai thì chẳng biết đâu mà nói trước được. Tương lai là một chân trời mù. Mù tịt. Là những câu hỏi không có câu trả lời.”
“Cháu không hiểu rõ ý của chú. Nhưng hình như chú bi quan.”
“Đúng, chú bi quan. Có lúc chán sống, chú cảm thấy rằng đi vào tương lai chẳng khác gì đi vào cõi chết, nếu cái chết là một mặt khác của đời sống như một vài tôn giáo đã quan niệm như thế.”
Rồi ông nói lẩm bẩm như nói một mình:
“Vâng, đối với người xa xứ như mình, chỉ có quá khứ là đáng trân trọng hơn cả, nhất là vào thời gian kể từ ngày gặp Thủy. Tại sao những ngày đó, những ngày thơ dại, thơ mộng, êm đềm ấy không chịu kéo dài thêm ra.”
“Chú ơi, chú nói nghe buồn quá. Nhưng nói gì thì nói, mẹ cháu cũng không còn ở trên đời này nữa. Thỉnh thoảng nghĩ đến chuyện cũ, nghĩ đến mẹ cháu, cũng tốt thôi, nhưng chú còn có lắm chuyện khác cần phải để tâm đến. Trước hết chú phải lo cho chú cái đã, rồi lo cho những chuyện xẩy ra hàng ngày, hàng tháng nữa chứ.”
“Thế à? Cháu của tôi ăn nói như một người từng trải. Thì chú vẫn sống, nghĩa là vẫn lo toan nhiều chuyện. Có điều là có những thứ không thể lấy gì thay thế được. Ngay cả trước đó, trước khi gặp mẹ cháu, hồi còn bé đi đến những bản Thượng… nếu có thể đổi một chuyến du lịch Ai Cập thăm Kim Tự Tháp để lấy một chuyến đi hồi nhỏ trên chiếc xe cũ kỷ của cậu, chú đổi ngay.”
Cô gái có vẻ nóng nảy:
“Thế thì dễ quá chú ơi. Các bản Thượng vẫn còn đó, Bến Tranh hay quê chú ngoài Trung hay gì gì đó vẫn còn đó, chú tới thăm đi. Hay về ở luôn bên này, cho cháu tới thăm chú. Chuyện quá đơn giản!”
Ông bật cười:
“Thi không muốn hiểu thì chú có nói mãi cũng vô ích. Nhưng dù sao cháu cũng đã gợi lên một ý mới: về ở luôn bên này. Có nhiều điều khó nói kể cả vấn đề công ăn, việc làm. Nhưng quan trọng nhất là… chú luôn luôn mang trong lòng những cảm nghĩ mà những người thuộc thế hệ cháu có lẽ không để ý tới. Cái ý nghĩ bị xâm lăng, tướt đoạt, sỉ nhục, áp bức. Hơn nữa mình bỏ đi vì chống lại cái chế độ hà khắc, man rợ, u ám, thế mà bây giờ…”
Ông bỗng ngừng nói, chợt nghĩ đến một câu chuyện giữa ông và người tài xế khi ông thăm miền Bắc. Ông bảo nếu được sẽ lên biên giới xem Ải Nam Quan bây giờ đã nằm thụt vào nước Tàu bao xa. Vâng, cái hiểm họa bị Tàu nó thôn tính từng bước đang đè nặng lên lòng mọi người, vậy mà người ta chỉ lo củng cố chế độ, hà hiếp dân nghèo, và làm giàu trên xương máu mọi người. Không chừng lại mất nước!
“Ô hay, khi không chú lại thôi nói. Tiếp tục đi chứ!”
“… thế mà… thế mà bây giờ có một chút tiền trong túi lại quay về khi cái chế độ vẫn ấy vẫn còn tồn tại. Về để tha hồ tung tiền ăn chơi, phè phỡn. Rồi đến một ngày nào đó, sẽ ở lại luôn an hưởng tuổi già. Thật buồn cười. Trong lòng đã mang cái ý nghĩ ấy thì làm sao sống cho thoải mái được. Cháu khác chú. Cháu không mang một ám ảnh nào cả, không bị một hành trang nào đè nặng. Cháu có thể an tâm sống ở nơi này. Chú sẽ giúp cháu một ít vốn. Đó là về mặt vật chất. Còn về phần tình cảm chẳng hạn, ở đây cháu còn có bà dì, còn Bến Tranh, còn quê cha đất tổ. Chứ chú không còn gì cả.”
Cô gái vội vàng tiếp lời, và lần này cô nói một hơi không chút vấp váp như thể đó là những gì đã chất chứa trong lòng cô từ lâu, nay mới được dịp cho tuôn ra:
“Bà dì hả? Bà già quá rồi, bà điên rồi, bà lẫn rồi, bà có biết gì đâu. Bà đang nằm chờ chết tại nhà của người giúp việc cũ ở Vàm Láng. Mọi chuyện đều do người đó cáng đáng. Còn Bến Tranh? Chú thích Bến Tranh lắm, cháu biết. Cũng phải thôi, vì hồi đó mẹ cháu với chú thường về đấy thăm, hai người có nhiều kỷ niệm để nhớ. Chứ cháu có còn gì nơi đó mà nhớ mà thương.”
“Có lẽ cháu cũng nên về đó thăm một lần. Biết đâu…”
“Có. Cháu có về đó một lần. Lạ hoắc. Tìm không thấy nhà của ông ngoại đâu cả. Sau nghe nói nhà đã bị tịch thu sửa lại làm trụ sở Hợp Tác Xã Nông Nghiệp. Đó là quê ngoại của cháu phải không chú. Còn gì nữa? Còn quê nội hả? Quê cha đất tổ của cháu hả? Chú muốn nói đảo Galang hay một làng đánh cá nào tại Thái Lan với ông bố hung ác, loạn luân. Mà ông nào đúng là ông bố? Có lẽ đang còn sống và đang tiếp tục nghề cướp biển? Khi nào cháu trúng số sẽ đi tìm những nơi đó, quê cha đất tổ, để định cư nhé. Ý chú muốn cháu như vậy hả? Trả lời giùm cho cháu đi. Sao chú ngồi im, trả lời đi!”
Ông vẫn ngồi im. Bỗng cô gái cười ròn, tiếng cười trong trẻo như cô vẫn cười, trong khi đôi “mắt phượng” dài và hơi xếch lại có vẻ u ám không cùng cười theo. Cô gái tiếp lời như đùa, như thật:
“Chú ơi, cháu vừa khám phá được một điều hết sức lạ lùng, hết sức mới mẻ, làm cháu kinh ngạc vô cùng. Và sung sướng vô cùng. Cháu vừa tìm thấy một người thân, người thân độc nhất của cháu trên cõi đời này. Chú biết đó là ai không?”
Ông ngạc nhiên, dè dặt hỏi:
“Thật vậy sao? Ai thế?”
“Hồi nãy cháu đã nói rồi, mà chính cháu cũng tưởng là cháu nói đùa. Bây giờ mới biết là không đùa mà là chuyện thật. Chú muốn biết người đó là ai không?”
“Dĩ nhiên chú muốn biết.”
“Người đó là chú.”
Ông lạnh lùng:
“Cháu buồn cười quá!”
“Không, không phải vậy đâu. Không có gì buồn cười cả. Khi cháu nói thật thì chú không chịu tin. Cháu xin nói lại hồi nãy cháu cứ tưởng mình vui miệng nói đùa thôi. Nhưng chú nghĩ lại xem, cháu có còn ai là người thân nữa đâu, ngoài chú ra! Chú có nói đến quê hương, tổ quốc? Đối với cháu, quê hương, tổ quốc hình như chả có nghĩa lý gì cả. Một bãi biển vắng? Một hòn đảo hoang? Đúng vậy, không có quê hương, tổ quốc, cũng không sao. Có con người, có người thân, thì mới có quê hương. Không còn ai, thì quê hương cũng không thể tồn tại, phải không chú? Cho nên chú ở đâu, quê hương của cháu ở đó. Chú là quê hương của cháu.” Giọng nói của cô gái trở nên nghẹn ngào. “Chú ơi, hôm nào chú đi cho cháu đi theo với, nhé, nhé. Chỉ có thế họa may cháu mới có thể làm lại cuộc đời…”
Ông không ngờ câu chuyện lại xoay chiều qua hướng đó. Cô bé quỷ quái này đang “bày binh, bố trận”, hay đó là tiếng nói xuất phát từ đáy lòng, ông bần thần ngẫm nghĩ. Bỗng cô gái vội vàng tiếp:
“Ô, chú ơi, chưa được rồi! Chỉ có cách là chú nghĩ đến mẹ cháu, chú thương cháu, bảo lãnh cho cháu qua bên đó. Thủ tục lôi thôi, rườm rà, kéo dài đến 5, 7 năm là thường. Muốn mau, mình làm đám cưới giả. Qua bên đó ở với nhau mấy năm cho đúng luật, bạn cháu gởi thư về nói như thế… Rồi thôi nhau, nếu chú thấy muốn thôi, chứ cháu… Nhưng riêng cháu thì cháu chỉ còn một đường độc nhất, suốt đời đi theo chú. Cháu nói thiệt đó chú. Khi không cần phải nói láo thì nói láo làm gì!”
(Còn tiếp)