Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về…
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
II
Thế là mình sắp trở lại Huế sau hơn ba mươi năm, ông nói thầm trong lòng. Đồng Hới, Đông Hà rồi Huế! Quảng Bình, Quảng Trị rồi Thừa Thiên! Tuy xa quê lâu ngày ông cũng nhớ rằng ba tỉnh miền Trung này mang nhiều sắc thái, cung cách na ná giống nhau, con người cũng như cảnh trí thiên nhiên, tiếng nói, cử chỉ cũng như cách ăn mặc, vóc dáng, và sắc diện. Cho đến nhà cửa, cỏ cây, làng mạc, núi sông, cũng có những nét chung chung.
Thế là mình đã vào hẳn một phần đất của miền Trung có chiều dài mà ít chiều rộng. Đông là biển, là Thái Bình Dương, tây là núi, là dãy Trường Sơn. Biển núi chạy song song, đất nằm giữa. Bắc và nam được chắn ngang bởi Đèo Ngang và Đèo Hải Vân. Một miền xanh tươi nhưng nhỏ hẹp.
Ông sinh ở Huế, trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại đó, rồi đi xa. Ông nhớ một câu người ta thường nói, “Huế không phải là nơi ở để thương nhưng đi để nhớ”. Cứ cho đó là một danh ngôn, nhưng danh ngôn thường chỉ đúng một nửa, hoặc đúng trong hoàn cảnh này nhưng sai trong hoàn cảnh khác. Người ta thường lấy danh ngôn biện minh cho hành động của mình, ông ngẫm nghĩ. Khi thất thế thì, vâng, tôi cũng chỉ là một con người đáng thương như trăm ngàn người khác,”Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng“. Khi đắc chí lại cao giọng, tôi ấy à, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Cho nên ông dị ứng đối với những danh ngôn. Ông muốn nói ngay khi đang sống tại Huế, ông đã yêu qúy xứ sở ấy rồi, chứ không phải chờ đến khi xa Huế mới nhớ với thương.
Trước kia, khi miền Nam chưa sụp đổ, thỉnh thoảng ông về quê thăm nhà dù bố mẹ không còn. Ngôi nhà do người cô cùng mấy đứa con đã lớn trông coi. Cô ít nói, sống âm thầm như chiếc bóng, đi đứng lặng lẽ, nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ khoan thai. Mấy người con của cô thì phải đi làm suốt ngày, tối về trễ, mệt nhọc, ăn uống xong là vội vàng lên giường ngủ. Nhưng ngôi nhà của thời thơ ấu dường như vẫn đứng vững trước thời gian.
Cái bàn viết của bố ngày xưa vẫn ở bên chái phải nằm cạnh cửa sổ có chấn song nhìn ra vườn chuối, cau. Ngoài những hoành phi, câu đối treo đầy trong gian giữa dùng làm nơi thờ Phật, và trong hai gian phải và trái là nơi thờ tổ tiên, có hai tấm liễn bằng gỗ trắc thật lớn, và thật cao, cao từ sàn nhà đến gần chạm mái nhà, viết bằng chữ Hán cẩn xa cừ lên nước vân óng ánh, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, được đóng sát vào hai chiếc cột gỗ lim chạm trổ.
Hồi đó bố nhiều lần giải thích cho chú bé nghe ý nghĩa những dòng chữ trên hai tấm liễn mà chú có hiểu gì đâu. Một bộ ngựa gõ gồm ba tấm rộng, dài, dày và láng bóng vẫn được kê bên chái trái cạnh phòng ngủ của mẹ.
Phòng của mẹ! Phía đầu giường, trong chiếc tủ nhỏ, ngoài các ngăn kéo đựng đồ khâu, kim chỉ, gương lược, phấn son, còn có một ngăn mà mỗi lần đi học về chú bé chạy vội đến kéo cái ngăn ra thế nào cũng bắt gặp khi thì cái bánh thuẫn, khi thì tấm kẹo đậu phụng, khi thì ly chè đậu váng, khi thì khoanh chả bò hoặc chả heo, khi thì nắm xôi vò hoặc xôi gấc, khi thì vài trái ổi sẻ, khế ngọt còn tươi rói vừa hái ngoài vườn… “Con ăn xong đừng bôi tay dơ lên gối mẹ nghe!”
Trên mặt tủ vẫn còn tấm ảnh lớn của bố mẹ và chú bé đặt dưới tấm gương trong. Còn cái ghế cao nữa chứ, cái ghế ba chân có cái tựa lưng dành riêng cho chú bé vẫn để cạnh bàn ăn sáu chỗ ngồi dù trong nhà chỉ có ba người, bố mẹ và bé. Cả con ngựa gỗ để bé cưỡi chồm tới chồm lui với hai con mắt tím lem luốt do bé bôi mực vào vẫn nằm yên bên cạnh chiếc ghế bành bằng mây đan nằm ở cuối hàng hiên.
Tất cả đều không thay đổi. Tất cả đều được những tấm lòng, những bàn tay chăm sóc chu đáo. Tất cả đều có linh hồn, đều âm thầm mang một đời sống bất diệt. Bố mẹ sống lại, ông bé lại. Cả cơn gió thổi xào xạc ngoài vườn chuối cũng là cơn gió cũ, cả đám mây bay lang thang trên trời cũng là đám mây xưa. Thời gian, không gian quay về quấn quýt.
Những mùa đông lạnh “thấu xương” mệ — bà nội — luôn luôn gập người ôm trong lòng chiếc lồng ấp than hồng dưới lớp tro trắng mỏng, ông hàng xóm qua chơi với bố đầu trùm khăn bông kín cả tai, cả mặt, chỉ để lộ ra cái mũi không giống như mọi khi, sần sùi và đỏ như trái cà chua, dãy thầu đâu, hay sầu đông, trước nhà cành nhỏ như những “bộ xương cứu chúa” rụng không còn một chiếc lá.
Những mùa hè nóng “chảy mỡ”, chú người làm ở trần ngủ trưa trên chiếc phản gỗ mỗi lần trở mình phát ra thứ tiếng như tiếng chân lội bùn bì bõm vì mồ hôi trong người chú tuôn ra dán lưng vào ván, và những cơn mưa giông đột ngột làm ai nấy “ướt như chuột lột”, và những mo nhãn lồng ngọt lịm ăn mãi đến rát cổ, mắt chảy ghèn. Những mùa Tết khói hương nghi ngút phố xá, xóm làng, ống lói, pháo tre, pháo cối, pháo tràng, pháo quả, pháo chuột, pháo xì thi nhau nạt nộ.
Những mùa mưa dầm nước lên cao mãi, đóng vội cửa nẻo để guốc dép nằm trên nền nhà khỏi theo dòng nước bạc trôi đi mất, và chuẩn bị kê giường, tủ cho cao thêm khi mực nước từ từ dâng.
Những mùa thu khai trường đi học chưa có đà, trong túi còn thủ những trái mù u, những hòn bi chai, cái ná bắn chim, trong lòng còn luyến tiếc ao cá rô, bờ sông, bãi biển, mắt còn mơ màng dõi theo những sợi tơ trời mỏng mảnh bay vật vờ trên nền trời xanh.
Và còn lũ trẻ nữa chứ. Và thần tượng của chúng nó: Chú Thìn. Chú bảo chú là con rồng tái sinh. Khác với những người lớn trong làng, chú thường chịu vui chơi với lũ trẻ con, bày những trò lạ mà tụi nó thích thú vô cùng. Lấy hai chiếc đũa tre chống nghiêng cục gạch đặt trước một cái lỗ nhỏ rải vào đấy mấy hột gạo, hoặc vài con cào cào, châu chấu đã bị bẻ chân, ngứt cánh, để bẫy chim sâu, chim sẻ. Vót tre làm cái xà róc trông giống như cái bít tất để bắt cá rô, cá lúi. Cá lúi nhỏ bằng ba ngón tay, mập, ngon, mùa lụt mới có, từ nguồn sông theo nước lụt đổ về thật nhiều. Tìm những cái hang sâu ở mép bờ hói hay bờ ruộng mùa ngập nước thò chân vô dộng, thụt, mươi mười lăm cái là lươn ngộp thở lờ đờ chui ra. Có khi gặp rắn nước, thì rút chân ra chạy lẹ. Rủi bị nó cắn cũng không sao, rắn nước không độc. Tập trèo cau, trèo dừa, không cần đeo vào hai cẳng chân cái nài số 8 làm bằng bẹ chuối tươi đập giập. Chặt thân cây chuối làm phao để tập bơi ngoài sông cái. Làm diều giấy khung tre đem ra ngoài đồng những hôm gió nhiều thả chơi v.v…
Chú còn hứa “sẽ khai tâm tụi bây mấy đường quyền cước”. Chú cao lớn, hiên ngang, và rất ngầu. Chú biết múa dao, múa côn, và trổ những ngón võ gia truyền bí hiểm. Đi bằng hai tay đối với chú chỉ là chuyện “nhằm nhò gì” vì chú còn có thể lộn ngược đầu trèo cau, nghĩa là chân lên trước, đầu lên sau, rồi dùng hai bàn chân bẻ cau.
Buổi chiều nào rảnh rỗi, chú lại đi luẩn quẩn dọc theo những con hói tay lăm lăm cầm một khúc hóp dài như cái cần câu, thẳng bon, bóng loáng, đầu ngọn gắn “cái chỉa một bằng thép có ngạnh như lưỡi câu” mà chú gọi là cái đọt. Thấy con cá lớn đang lội dưới hói, chú thẹ thẹ tiến tới, đứng khuỷu một chân, nghiêng người, nâng cái đọt lên ngang vai, nhắm nhía phóng mạnh. 10 phát trúng 8, 9. Trúng ngay bụng cá. Chú nói nếu mũi đọt trúng vào chỗ khác, con cá sẽ vùng vẫy, thoát.
Nhưng chú tha những con cá mẹ có bầy con bơi lội rối rít. Thường thường đó là cá tràu, Nam gọi là cá lóc, Bắc gọi là cá quả hay cá chuối. Hễ thấy một bầy cá mới đẻ nhỏ tí xíu như cây tăm, nhiều vô số kể, cả hàng ngàn con, bơi loạn xạ trên mặt nước, thì biết ngay mẹ chúng nó bơi ngầm bên dưới canh phòng, bảo vệ, chống lại lũ cá khác, hay ếch, nhái xông tới đớp con mình. Giết chết con cá mẹ, chú nói, thì coi như giết cả đàn con, tội nghiệp.
Buổi chiều phóng đọt bắt cá, thì buổi tối hôm đó khói bay cuộn lên từ cái sân đất nện của nhà chú. Lũ trẻ rủ nhau đến đứng lóng ngóng đón gió để ngửi mùi cá nướng thơm lừng, nghe tiếng chó sủa ỏm tỏi. Đứa nào cũng làm bộ trốn thật kỹ sau hàng dậu nhưng chỉ mong được chú để mắt tới, kêu vô cho ăn năm ba miếng cá nướng lấy hên, như lời chú nói. Cũng theo lời chú, cây chỉa đó còn dùng để trừ những con “ma rà” lẫn lút dưới sông dưới hói chuyên môn kéo chân tụi con nít đi tắm sông một mình.
Chú có thể ăn hết một cánh tay chè đậu xanh đánh, đặc — chú quỳ xuống đất dang thẳng cánh tay đặt sát mép bộ ngựa gõ, để người ta sắp chè lên từ vai đến bàn tay, và cứ thế dùng bàn tay kia móc lấy chè đặc từ trong từng chén một cho vào miệng nuốt hết chén này đến chén khác, một hơi sạch bách. Ít nhất cũng phải vài mươi chén chè.
Chú còn biết nhiều trò ly kỳ khác, nhưng đặc biệt nhất là, lũ trẻ kháo nhau, chú có tài đánh trần, mặc quần xà loõng chuyền từ cây tre này qua cây tre khác nhanh hơn vượn. Những cây tre quay cuồng, ngả nghiêng theo sức đu của chú. Chuyền hết lùm tre mọc dài song song với bờ hói qua nhiều thửa ruộng thì chiếc quần của chú đã rách tươm. Chú biến thành trần truồng như nhộng, máu rịn ra khắp mình mẩy, toàn thân màu đỏ, chỉ còn có mái tóc và hai con mắt là đen, và hai hàm răng là trắng. Cũng có chỗ đen đen khác nữa nhưng chú bảo chỉ nên hiểu ngầm thôi, không được nói ra cho ai biết. Lũ trẻ dạ dạ nhưng chẳng hiểu chú nói cái gì.
Lũ trẻ đứa nào cũng khoe đã được thấy chú chuyền tre. Thật ra có đứa nào thấy tận mắt đâu hay chỉ nghe nói thôi, nên chúng không ai bảo ai đều ráng rình rập xem chú trổ tài một lần cho đã cái con mắt, cho bắt cái quả tang, như “chí nắm đè tay”, mà chưa đứa nào có được cái may mắn đó.
Thì.
Một đêm mưa to gió lớn. Cắc! Bụp! Bùm! Veo! Người ta cứ bắn nhau hoài mà, có gì lạ đâu. Ban đêm nhiều khi nghe cả tiếng đạn đại bác bay vù vù trên không trung, cứ sợ nó mất đà “bất tử” và rơi xuống trên nóc nhà của mình. Lũ trẻ trong những tình huống như thế, dặn nhau niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” là tai qua nạn khỏi. Nhưng trong đêm mưa gió đặc biệt đó, sau những tiếng “cắc bùm” lẻ tẻ là mấy tràng đạn liên thanh nghe rợn cả người.
Ngày hôm sau lũ trẻ rụng rời. Chú Thìn bị bắn chết, xác vắt lên trên cây tre đực cứng như đá. Lũ trẻ lại kháo nhau rằng chú đang “dượt lén”, không muốn cho ai thấy, cố luyện ngón chuyền tre cho thật siêu, không để gai tre cào vào người… thì bị bắn. Người lớn thì bàn tán với nhau khác — chúng nghe lóm — rằng Việt Minh bảo chú là Việt gian phải giết chết, Quốc Gia bảo chú là Cộng phỉ phải loại trừ. Vậy ai đã giết chú, thần tượng của chúng nó? Lũ trẻ buồn bã và uất ức, thì thầm bàn tán với nhau mãi mà “khoai chẳng ra khoai, môn chẳng ra môn”. Chỉ có một điều là từ ngày xẩy ra biến cố đó, tuổi thơ của chúng nó mang một vết thương khó lành.
Lớn lên thêm một chút, lũ trẻ có đứa ở lại làng quê sống trong vùng xôi đậu gánh chịu mọi gian khổ của thời loạn, có đứa may mắn hơn được dọn về thành phố để tiếp tục việc học hành.
Thành phố Huế vào thời gian ấy, những năm thời niên thiếu của ông, dù bị bao vây bởi những ngoại ô thiếu an ninh, vẫn mang một cung cách đài các, hoa lệ, thơ mộng. Những tổ chức văn hóa, giáo dục, kinh tế vẫn phát triển tốt đẹp. Trường học mở mang thêm. Sinh hoạt hàng ngày bừng bừng sức sống. Thời niên thiếu của ông đập cùng nhịp với trái tim đang hồi sinh của cố đô.
Cậu học trò con trai đầu vừa dưỡng rẽ, quần soọc xanh, áo sơ mi trắng, vàng, nâu, giày xăng đan rọ heo, nón cối Rạng Đông, xe đạp giàn Stronglight, thường gọi đùa là giàn “lung lay”, phanh Lam, ngày ngày đến trường đi ngang qua cầu Trường Tiền bắc ngang qua sông Hương, mắt không dám nhìn thẳng vào những tà áo trắng dài tha thướt ôm sát những thân hình ẻo lả đi thành hàng dài đầu đội nón lá, tay ôm cặp sách vở, chân mang guốc sơn, thường là guốc Đa Kao từ Sài Gòn gởi ra.
Ngôi trường thì cổ kính, con sông thì êm đềm. Những chuyến đi thăm những đền đài, miếu vũ, những chùa, những am, về bãi biển Thuận An mỗi mùa hè, đạp xe đạp qua cửa Ngọ Môn rồi vòng quanh Hoàng Thành, quanh núi Ngự Bình nghe nói ngày xưa thông xanh trùm đến đỉnh, nay chiến tranh đã tàn phá đi nhiều, hướng tới đàn Nam Giao đứng lại, quay người nhìn lui thấy ngay kỳ đài hùng vĩ bên kia sông Hương, đi sâu vào các lăng tẩm, tới đồi Vọng Cảnh, tới điện Hòn Chén. Những ngày nghỉ lễ dài, mon men tới tận chân núi Tâm Thai.
Còn núi Kim Phụng thường được gọi là Núi tím? Xa quá! Và nguy hiểm quá! Phe bên kia có thể có căn cứ địa ở đó, chiến khu ở đó? Chỉ còn một cách là, vào những giờ trống của buổi học, đứng trên cầu Trường Tiền nhìn về phía Bạch Hổ, Kim Long, Nguyệt Biều, Thiên Mụ, rồi nhìn thật xa thì tầm mắt có thể chạm vào ngọn “núi tím” ấy. Đằng sau và làm nền cho núi Kim Phụng là dãy Trường Sơn in thành vết xanh dài nơi chân trời. Tuổi niên thiếu nuôi ước mơ đi đến ngọn núi Kim Phụng màu tím một lần xem tận mắt coi thử ra sao. Giấc mơ không thành.
Nhưng đáng nhớ nhất vẫn là những buổi tắm sông gần như quanh năm, nhiều nhất là vào dịp nghỉ hè. Nước sông Hương trong và thơm, bơi ra giữa dòng có thể há miệng uống vài ba ngụm ngọt lịm. Sáng sớm mặt trời chưa mọc đã rủ nhau đi bơi xéo từ Thương Bạc qua chân cầu Trường Tiền phía bên kia sông. Ăn cơm trưa xong lại xuống Bãi Dâu chia phe nhau đá banh, một phe mặc áo, phe kia ở trần. Khát nước đã có dưa gang, dưa hồng ta “cầm nhầm” — tiếng Bắc Kỳ của mấy thằng bạn mới di cư vào học cùng lớp — từ mấy khu vườn gần đó. Đói bụng đã có bắp nướng “rẻ như bèo” mua từ Bến Đò Cạn.
Và để kết thúc trận đá banh kéo dài hai ba tiếng đồng hồ bao giờ cũng là buổi tắm sông lần thứ hai trong ngày. Lần này tắm thật lâu, bơi thật xa, có khi bơi “quá đà” qua tận làng La Ỷ, giáp ranh với làng Nam Phổ. Mãi đến khi trời chạng vạng tối mới bơi về trở lại chỗ cũ, tìm mớ áo quần để lôi thôi trên bờ sông, vẫn còn đó, mặc vội vào, về nhà, lòng ngay ngáy sợ bị la đi mô suốt ngày tới “bảy đời vương” mới về.
Có lẽ cũng nên trở lại với hai chữ “quá đà” cũng do mấy thằng bạn mới ấy giải thích: Những người di cư từ Bắc vào Trung, vào Nam được “phe ta” bảo rằng đã đuổi Tây đến sông Bến Hải mà vẫn còn sung sức, cho nên quá đà chạy lọt tuốt vô Nam.
Muốn đổi môn chơi, rủ nhau vào sân vận động Bảo Long đua xe đạp nước rút bằng xe đạp thường chứ không phải xe đua, té lên té xuống rách quần trầy chân vì pédal”của xe đạp thường quá thấp cọ vào mặt nghiêng của đường đua lòng chảo. Hay là vì đạp không đủ nhanh để tạo đủ độ nghiêng cần thiết của xe khi vượt qua những khúc quanh? Và lại nhớ Phượng Hoàng Lê Thành Cát đạp xe quanh lòng chảo nhanh như gió. Lê Thành Cát từng sinh sống tại Huế, là nhà vô địch đua xe đạp vòng quanh Đông Dương thời Pháp thuộc.
Lớn thêm một chút, học chưa xong cấp hai, hồi đó gọi là trung học đệ nhất cấp, ngoài việc học hành tại nhà trường, được khuyến khích đến các phòng triển lãm tranh của họa sĩ Tôn Thất Đào, họa sĩ Phạm Đăng Trí, họa sĩ Mai Lân, hoặc đến Hội Quảng Tri nghe em bé Thơ Thơ đàn dương cầm nhạc cổ điển Tây phương, nghe thầy Nguyễn Hữu Ba, thầy Anh Ngọc thuyết trình và biểu diễn cổ nhạc, tân nhạc.
Cũng đến đó để nghe nhà văn Tchya, vốn là giáo sư của trường, bàn về âm dương ngũ hành, học giả Nguyễn Thiệu Lâu từ Sài Gòn ra nói về các phát kiến mới của khoa sử địa, giáo sư Nguyễn Đăng Thục cũng từ Sài Gòn ra triết lý về Văn Hóa Á Châu v.v… Nghe xong, chẳng hiểu gì, tự bảo lần sau hãy dùng thì giờ đó đến rạp xi nê Tân Tân, Gia Hội Hí Viện coi bộ thú vị hơn. Tuy thế, hễ có vị nào đến Huế tổ chức thuyết trình tại Hội Quảng Tri, lại tò mò tới nghe.
Và những mối tình học trò ngây ngô nữa chứ. Mối tình học trò? Câu đó có thể áp dụng cho một số bạn học cùng lớp. Còn chính bản thân? Học hành cũng được, mặt mày cũng không đến nỗi “cụ trâu”, nhưng không giao du với phái nữ. Không phải vì ghét bỏ hay coi thường họ, mà vì “nhát gái”.
Một lần người bạn cùng lớp rủ tới nhà chơi vùng Kim Long. Mùa hè, trái chín trong vườn thơm lừng, mùi thơm lan ra tận con đường cái ngoài xa, cùng thằng bạn đi hết cây này đến cây khác tìm những trái chín cây ngon nhất hái xuống ăn. Ăn xong, trong khi chờ nắng dịu bớt để cùng nhau xuống bến Kim Long tắm sông, thằng bạn lấy quyển nhạc, xách đàn ghi ta ra đệm, để hai đứa thi nhau hát. Những bài hát hồi đó, còn nhớ, thường là của Phạm Duy như Đường Về Quê, Nhạc Tuổi Xanh, Nương Chiều, Bên Cầu Biên Giới, của Nguyễn Hữu Ba, thầy dạy nhạc của hai năm đầu trung học, như Lửa Rừng Đêm, Quãng Đường Mai, Thu Khói Lửa, Xuân Xuân, hay của Lê Thương, Hùng Lân, Văn Giảng…
Hai thằng đang hát hò vui vẻ với nhau bỗng hai cô em gái của thằng bạn đi đâu về. Hai cô e lệ cúi đầu chào rồi đi dọn dẹp mớ vỏ cam, vỏ quýt, hột nhãn, hột đào mà hai đứa xả ra đầy cái bàn học. Thấy người đẹp thế là không còn tự nhiên được nữa, nói năng ấp úng, rồi vô cớ đứng dậy đòi về ngay. Khi đã đạp xe một quãng xa, mới lấy lại bình tĩnh và nhận thấy tất cả cái vô lý của hành động vừa rồi của mình.
Để chuộc tội, chủ nhật tuần sau trở lại thăm người bạn ấy. Mang theo một gói ô mai làm quà. Vừa đạp xe vừa hình dung vẻ đẹp của hai cô. Cô chị đẹp như Thúy Kiều, cô em như Thúy Vân — cứ cho là thế, dù không biết Kiều và Vân nhan sắc như thế nào, và mình phải là Kim Trọng. Càng đến gần nhà, càng hồi hộp. Có tình ý gì mới hồi hộp chứ. Vậy đó là tình yêu? Vô lý!
Qua một cái cổng xây bằng gạch, dẫn xe đi trên con đường nhỏ khá dài có hai hàng chè tàu làm hàng rào hai bên, vào một cái sân rộng lát đá xanh, thì gặp cô chị. Trông thật đẹp và lạ hẳn trong chiếc quần lụa trắng và áo cánh cụt tay đang cầm cây chổi tém lá rụng vào một góc sân. Vừa thấy mình, cô gái hoảng hốt ném ngay cây chổi xuống đất và chạy biến vào nhà bếp. Thế là không kịp dựng xe đạp, lại vội đạp xe quay trở ra. Trên đường về, nghĩ mãi không hiểu nổi thái độ của cô gái. Trả thù vì tuần trước mình vừa thấy người đẹp là đã đứng dậy đòi về ngay? Hay vì thẹn? Vì sợ? Dù vì gì đi nữa, từ đó về sau, càng cảm thấy phái nữ là một ẩn số không có giải đáp.
Núi đồi, sông hồ, biển khơi, chùa chiền, lăng miếu, hoàng thành, những vườn cây trái chín thơm tho, những cánh đồng lúa xanh rì, những ngày đi học đạp xe qua cầu Trường Tiền, những chuyến đi bơi thật lâu và thật xa, và cả hình ảnh người con gái quét lá trên sân, tất cả, cùng với những giấc mơ thầm kín không dám tiết lộ cho ai hay, tạo thành khúc nhạc tuổi xanh thật êm đềm.
Nhưng những ngày ngây thơ và trong sáng đó không kéo dài được lâu. Chiến tranh như cơn bệnh dịch truyền nhiễm khắp nơi, như vết dầu loang thấm nhanh trên tấm bản đồ rách xác xơ. Tuổi trẻ không còn vô tư, những nét lo âu bắt đầu hằn lên trán. Lo học gạo để thi Tú Tài cho “chuyện nào yên đi một chuyện”, những người lớn tuổi học trễ trả chưa xong nợ sách đèn lại phải vào Thủ Đức theo lệnh động viên, một số người theo phe bên kia lo giã biệt gia đình đi tập kết ra Bắc, những người đẹp, những hoa khôi của các lớp lo lên xe hoa. Nhiều thầy đang dạy cũng rời nhà trường lo việc quốc gia đại sự, đi vào Nam tham gia các đảng phái, quốc hội, hoặc guồng máy chánh quyền mới vừa được củng cố để đối phó với tình hình khẩn trương.
Tuổi mới lớn bắt đầu biết yêu thì cũng đồng thời nếm mùi chia ly. Những bữa tiệc giã từ lớn nhỏ, lớn là làm gà làm vịt khao tại nhà, nhỏ là tô bún bò, tô phở ăn tại tiệm, hoặc nghèo hơn là ly cà phê Phấn, cà phê Lạc Sơn, tùy theo giao tình thân sơ và túi tiền thường rất ít ỏi, được tổ chức thật đơn giản và cảm động. Để khó có ngày gặp nhau lại.
Nay ông sắp về chốn cũ. Mọi thứ có còn như xưa hay không, như những chuyến về trước đây? Không, làm sao còn được, ông biết chắc như thế. Những thay đổi ghê gớm đã đổ ập lên mọi số phận của người, của vật. Những giấc mơ của tuổi thơ, tuổi trẻ đã đổ vỡ tan tành. Ngôi nhà được biết đã bị cháy một phần và phần còn lại biến thành một trụ sở quốc doanh gì đó.
Ngay cả bến sông có quán xá tấp nập, có con đò ngang qua lại suốt ngày đêm, Bến Đò Chợ Dinh, như tên gọi, nối liền kinh thành với những làng quê trong đó có làng của ông, nay cũng không còn. Chiếc cầu khá lớn đã bắc ngang sông. Hai câu thơ cổ buồn ảo não nghe văng vẳng đâu đây:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rủ tà huy
Vậy còn lại những gi? Bỗng dưng mấy tiếng ngắn ngủi bật ra, còn chứ, còn “Con sông xưa, thành phố cũ”. Ông đọc câu này ở đâu nhỉ, trong cuốn sách nào nhỉ, tác giả là ai nhỉ? Vâng, ông lẩm bẩm, còn quá khứ, còn “xưa”, “cũ”.
Trời sáng thêm một chút. Con tàu từ phía bắc chạy tất tả vào. Đẩy cửa sổ lên quay nhìn bên trái thấy biển, thấy mặt trời đang dần dần nhô lên từ đáy nước đằng xa, thật xa. Gió vi vu. Không khí se se, lành lạnh, dù đang mùa hè. Con tàu chạy chầm chậm ngang qua chiếc cầu sắt, ì ầm, ì ầm, rồi tiếng máy khua nhanh theo nhịp điệu cũ, tàu lại chạy nhanh dần. Thì ra mỗi khi qua cầu, tàu giảm tốc độ.
Dòng nước xanh biếc bên dưới cầu từ thượng lưu chảy nhanh về mang theo thật nhiều những cánh bèo màu xanh đậm. Xa xa mấy con đò xám đen ẩn hiện trong sương mù. Hai bên bờ sông, những lùm tre xanh thong thả đu đưa trong gió sớm. Nhiều màu xanh khác phụ vào tô lên nhau, màu da trời, màu nước, màu cây lá, màu ruộng lúa… tạo thành một bản hòa tấu xanh.
Chốc chốc một làn mưa mỏng như giải lụa màu nguyệt bạch từ đâu kéo tới trong khoảnh khắc ngắn rồi bay đi làm nhạt nhoà những màu sắc vốn đã mơ hồ. Những mái tranh nâu thẩm bây giờ chỉ còn là mấy nét chấm phá nhoè nhoẹt như trong một bức tranh Tàu. Bản hoà tấu xanh tan ra thành sương khói. Không gian bao la như đang ấp ủ một mùi hương rất nhẹ. Mùi hương hay mùi quê hương?
Ông chợt nhớ ra, đúng rồi, đó là khung cảnh làm nền cho một bức tranh quen thuộc đã nằm lâu trong ký ức, đó là bức tranh bìa của bản nhạc Về Miền Trung của Phạm Duy mà người vẽ là họa sỹ Phi Hùng. Tại sao mình có thể nhớ được những chi tiết xa xôi ấy, ông không thể nào hiểu nổi.
Những năm cuối trung học lại lũ lượt kéo về cùng với tiếng hát Hà Thanh, con chim hoạ mi của xứ Huế, cô nữ sinh trường Đồng Khánh, cô Phật tử Gia Đình Hương Từ đặt trụ sở tại Đình Thế Lại nhìn qua Mang Cá cách một nhánh sông đào chảy về phía Bao Vinh. Lục Hà, tên thật của Hà Thanh, có nghĩa là con sông xanh như ta vẫn tưởng? Nhưng không phải, đúng ra đó là tên một loài sen, loài súng màu lục.
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
(Mùa xuân đi chơi trên cỏ thơm
Mùa hạ thưởng thức ao hoa súng)
Hà Thanh, hồi đó, vừa đoạt giải nhất “Tuyển Lựa Ca Sĩ” của Đài Phát Thanh Huế qua hai bài hát Dòng Sông Xanh của Johann Strauss, lời Việt của Phạm Duy, và Về Miền Trung cũng của Phạm Duy:
Về Miền Trung
Miền thùy dương, bóng dừa ngàn thông
Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông dài
Ôi quê hương xứ dân gầy
Ôi bông lúa
Con sông xưa, thành phố cũ…
Bốn người ghé lại một quán nhỏ bên đường. Đã xế trưa mà nắng vẫn nung nấu. Vừa ngừng xe vào quán, Hạnh đã phải giở chiếc nón bện bằng lát rộng vành đang đội trên đầu phe phẩy quạt. Vài giọt mồ hôi hiện lên trên trán của cô, vai áo ướt. Ba người đàn ông cởi nút áo phanh ngực gọi bia lia lịa. Quán vắng. Họ chia nhau ngồi trên những chiếc ghế đẩu quanh một cái bàn gỗ tạp thấp trống trơn, không khăn bàn, không ly tách. Hạnh vui vẻ nói với ông Khê:
“Em đi ra hướng bắc lần này là lần đầu tiên đây.”
“Còn vô nam?” Ông Khê tiếp lời. “Em uống gì?”
“Dạ, nước đá lạnh. Vô nam hả, có vô mấy lần rồi chứ, thưa anh. Con đường đẹp ghê!”
Không chờ gọi, chủ quán đang đứng ở quầy hàng gần đấy mang ngay một ly nước đá lạnh đặt trước mặt cô trong khi ba người đàn ông tu bia lạnh ngay từ trong chai. Ông Khê nhìn Hạnh nói khẽ:
“Đồng ý, đẹp ghê.”
Hạnh dường như có chút thèn thẹn nhìn mông ra ngoài con đường trải nhựa đen phơi mình dưới cơn nắng chói chang, cười bâng quơ. Như sực nhớ, cô quay qua ông hỏi tiếp:
“Sau này khi đã vô ở luôn trong Sài Gòn , anh còn có dịp nào đi từ Huế vào Đà Nẵng? A… mà… em nhớ ra rồi, anh có đi. Có một lần… anh mang về mấy cái tượng đá trắng anh mua ở Non Nước, Ngũ Hành Sơn. Anh mua cho mẹ em, cho em… Chỗ đó gần Hội An phải không anh?” Ngẫm nghĩ. “Để em lấy mấy chai nước suối mang theo phòng khi lên vùng mộ xa xôi vắng vẻ không quán xá lỡ khát lấy ra uống.”
Lòng bồi hồi, ông nói như nói một mình:
“Thế à? Lâu ngày quá mà vẫn cứ còn nhớ như in.”
Quang ngồi yên cau mày nghe hai người đối đáp, có vẻ sốt ruột nhún vai chen vào:
“Huế Đà Nẵng thì có xa xôi gì mà đi với không đi, mà nhớ với quên. Cái lối nói cho có nói, hỏi cho có hỏi. Cái đó gọi là hỏi giả đố.”
“Hay chưa!” Hạnh lườm Quang. “Có quên người ta mới hỏi chớ. Giả đố, giả đò cái gì!”
Ông cười trừ với Quang:
“Trước kia, trước 75, mỗi lần anh có dịp về công tác tại Đà Nẵng, anh đều đáp máy bay từ Sài Gòn thẳng ra Huế, ở lại một hôm, rồi đi xe hơi từ Huế vào Đà Nẵng. Cốt để nhìn lại con đường. Chỉ một đoạn đường không dài lắm mà có đủ mọi thứ phong cảnh… đẹp như tranh. Nhất là khi lên ngọn đèo cao ngất có nhiều mây phủ. Nhìn lui lại phía Huế. Bãi biển vòng cung mờ mịt trong mây …”
Quang đặt mạnh chai bia đang uống lên mặt bàn, đứng dậy, ngắt lời:
“Đèo Hải Vân chứ gì. Nhưng chỉ có phong cảnh mà thôi hay sao? Ngang qua Truồi, có dâu, bánh bột lọc, tới Cầu Hai ăn cá, cá dưng, cá dìa, cá mú… Cá Đầm Cầu Hai ngon nhất nước. Lăng Cô thì sò huyết, mực tươi, mực khô. Muốn làm quà cho bà con, bạn bè, mua mắm sò, mắm thu. Ngày mai ta đi Cầu Hai ăn cá biển. Còn thì giờ lại kéo lên Bạch Mã chơi.” Quang nói giọng lên bổng xuống trầm như đang diễn thuyết.
Hạnh trông tươi như con chim sáo, hai tay thay nhau phe phẩy chiếc nón lát có vẻ chả đem lại chút hơi mát nào, cái vẫy tay nhanh chậm, mạnh nhẹ tùy theo nhịp vui trong lòng. Cô reo lên:
“Ô Bạch Mã, em chưa tới. Đẹp lắm phải không anh Khê? Mà có xa lắm không?”
“Không,” Quang tranh đáp. “Từ các quán ăn ở Cầu Hai đi tới một chút, gặp ngả ba rẽ phải, băng ngang qua ngôi chợ nằm dọc theo con lộ nhỏ, rồi đi thêm một đoạn ngắn nữa là đến chân núi Bạch Mã. Cái chợ đó cũng hay. Người ta họp chợ ngay trên con đường cái choán cả mặt đường lẫn hai bên đường. Xe cộ muốn qua phải chờ người ta dọn dẹp. Họ dọn dẹp mau lắm.”
“Rồi từ chân núi lên đến đỉnh?” Hạnh hỏi tiếp.
Quang tay cầm lại chai bia, miệng thao thao:
“Thì cũng khoảng gần 20 cây số là cùng. Lên dốc quanh co. Tới nơi tha hồ mát, mát đến lạnh. Nhiệt độ trung bình trong năm thấp hơn ở Đà Lạt. Rồi tham quan núi, rừng, suối, thác, và hàng ngàn biệt thự… “
“Sức mấy. Mô mà nhiều rứa,” Minh lơ đãng ngắt lời. “Cỡ trên một trăm thôi.”
Ông im lặng ngồi nghe. Một cảm giác ấm áp nhen nhúm từ khi ông gặp lại mấy người bà con thân thuộc này. Hạnh tiếp lời:
“Trên một trăm biệt thự cũng là nhiều quá rồi. Ai ở trong nớ rứa?”
“Không, không có ai ở trong đó cả,” Quang nói. “Trước kia, lâu lắm, thời Pháp thuộc, đó là những nhà nghỉ mát của bọn thực dân, vua chúa, quan lại, hay của bọn tư sản. Nay hầu hết các biệt thự đều bị phá hủy, cháy sém, có cái chỉ còn trơ nền nhà. Cảnh vật hoang tàn nhưng có cái đẹp của nó. Nhất là cảnh núi non. Đất nước ta thật tuyệt vời. Trên cả tuyệt vời, ít nơi so sánh nổi. Và thật hùng vĩ!”
Tu thêm một ngụm bia, Quang nói tiếp:
“Từ nhiều nơi trên đỉnh Bạch Mã, nhìn thấy gần hết cái Đầm Cầu Hai. Nhìn xa hơn, những hôm trời tốt, có thể thấy luôn cả thành phố Huế và những làng quê khác… Đâu đâu cũng rừng vàng, biển bạc… Nước ta kể từ khi…”
Ông kín đáo nhìn Quang, ngẫm nghĩ. Hạnh ngắt lời:
“Thôi, tốp bớt đi ông ơi. Nói chuyện khác!”
Quang đáp:
“Thì chuyện khác. Lẽ ra đi Bạch Mã thì hay hơn, nhưng anh Khê cứ nhất quyết đòi đi thăm mộ, thăm mộ, thăm mộ. Mai đi Bạch Mã vậy.”
“Ô, mai không được rồi,” ông vội đáp.
Không nhìn ông Khê, Quang nhún vai, nói dấm dẳng:
“Anh bận lắm sao? Hay vì lý do khác? Nếu vì lý do tài chánh thì… đừng lo. Tôi có thể trả mọi chi phí cho ngày mai. Dư xăng!”
Ông hơi giật mình ngạc nhiên trước lối ăn nói sỗ sàng của Quang. Ông chưa kịp phản ứng thì Hạnh đã chen vào:
“Quang! Hôm nay anh ăn phải cái chi mà ăn nói ba hoa rứa. Ai không biết anh là triệu phú mà phải khai ra. Đại gia mà.”
“Không ba hoa đâu,” Quang tiếp. “Còn điều này nữa, tôi nói chung chung thôi nghe, không có ý nhắm vào ai cả. Việt kiều về nước rất khoái đi thăm mộ. Tức là… tỏ ra muốn về nguồn, về cội, gì gì đó, phải không?”
Minh và Quang là hai anh em ruột, nhỏ tuổi hơn ông nhiều, Hạnh là vợ của Quang, và em họ của ông. Khi đến Huế, ông rất vui mừng tìm được nhà của vợ chồng Hạnh, và hẹn với Hạnh cùng Quang, Minh đi thăm viếng vài nơi. Và nhất là đi thăm Mộ Ngài khá xa thành phố. Mọi người đồng ý.
Ông băn khoăn. Ông bắt đầu cảm thấy nơi Quang có cái gì khác lạ, rồi nhủ thầm cũng phải thôi. Xa nhau lâu ngày, biết bao thay đổi. Hơi ngần ngại, ông phân trần:
“Anh quên nói cho các em biết rằng hôm nay là ngày chót anh ở Huế. Sáng mai sớm anh đi Sài Gòn, mua vé rồi. Ở trong đó có chút việc cần giải quyết trong vài ba ngày rồi lại đi. Còn chuyện này nữa, chú Quang và anh cứ dành nhau trả tiền ăn tiền uống như từ hôm qua đến giờ thì thật là phiền phức. Cứ để anh lo mọi chi phí, không là bao đâu. Anh đã dự trù một số tiền cho chuyến về thăm, thì phải tiêu cho hết. Đừng… này nọ, mất vui.”
Minh, em của Quang, vốn tính ít nói, bây giờ cũng lên tiếng:
“Em đồng ý với anh Khê.”
“Thế tao thì sao? Mày có bao giờ đồng ý với tao đâu!” Quang cự nự. “Tại sao vậy mày?”
“Tại anh rắc rối!” Minh đáp cộc lốc.
“A cái thằng này! Rắc rối cái gì? Muốn thăm mộ Ngài thì đang đi đây này. Rắc rối cái gì. Nhớ là mày dẫn đường đó nghe. Mày đã có lần đi theo ông bác thăm mộ Ngài gì gì đó, chớ tao không biết đường đâu.”
“Được rồi. Em dẫn đường,” Minh lầm bầm.
Nghỉ ngơi khoảng mươi phút và mua thêm cái bật lửa, nhánh hoa, bó nhang, mấy chai nước, xong mọi người lại lên đường. Rời khỏi quán, như lúc nãy, ông ngồi sau Minh, Quang chở Hạnh. Hai chiếc Honda loại tốt chạy êm trên con Quốc Lộ I dưới cơn nắng hừng hực mùa hè. Chỉ một mình Hạnh đội nón, một tay giữ nón trước những cơn gió lồng lộng.
Ông cố nén xúc động. Tiếng chim kêu, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa, tiếng bước chân nặng nề của mấy con trâu đi ven bờ cỏ, tiếng người kêu ơi ới văng vẳng từ xa, cả tiếng gió lùa trong bụi tre, lướt trên cánh đồng, đều biến thành những âm thanh đầy ma lực. Trong không khí, trong tia nắng, ông cảm thấy như cũng có âm thanh, có tiếng reo vui, tiếng buồn phiền, tiếng giận hờn, lời trách cứ. Trong không gian, không khác gì từ bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, vẫn thoang thoảng mùi cỏ cây, hoa trái dịu dàng, mùi đồng ruộng, ao chuôm ngai ngái, mùi rơm rạ nồng nàn, mùi sông nước tràn tề, man mác. Và cả mùi tóc của mẹ ngày xưa trên chiếc gối trắng bây giờ cũng nhè nhẹ bay theo khiến ông đang biến thành trẻ thơ. Ông muốn những xúc động mà ông cố nén xuống sẽ ở lại thật lâu trong lòng.
Thế là ông đã trở lại quê nhà sau hơn một phần tư thế kỷ. Đó là điều ông không ngờ tới. Bây giờ đây ông đang đi trên những con đường này, gặp lại những người tưởng không thể bao giờ gặp lại, những bà con, bạn bè, quen biết, không còn bao nhiêu, phần đông đều mừng rỡ một cách chân thành, nhưng cũng có người nhìn ông bằng con mắt hoặc u ám hoặc lạnh nhạt hoặc ganh tị hoặc đối nghịch. Một đứa cháu ông thương nhớ nhiều đã nói với ông bằng một giọng buồn buồn, “Cháu tưởng chú không bao giờ về chứ, chú… chú đi luôn là phải hơn.” Cháu nói gì vậy hả cháu? Chú chưa hiểu hết được ý cháu.
Còn đối với chánh quyền địa phương? Không ai hỏi ông, không ai gặp ông, và ông cũng không gặp ai cả. Giấy tờ nộp cho công an phường khóm thì đã có mấy đứa em họ lo liệu cho hết. Ông lờ vờ như con đà điểu chỉ ngại nếu gặp chuyện rắc rối là sẽ dúi đầu xuống cát.
Họ phóng xe về phía cầu An Hòa. Cảnh vật cũ ông tưởng đã quên đi nhiều, nhưng không, vùng này, hình như chỉ riêng vùng này thôi, ít thay đổi. Ông nhận ra những khúc quanh quen thuộc, mấy ngôi chùa cổ, những con hói nho nhỏ luồn lách qua những lũy tre xanh, những hàng hóp, chạy theo những đường đê dẫn vào xóm làng xa tắp.
Vừa qua khỏi cầu An Hòa một quãng ngắn, ông sực nhớ một điều, liền bảo Minh và Quang dừng xe lại. Vẫn còn ngồi trên xe, một chân chống đất, tay chỉ về hướng con đường nhỏ và dài rẽ qua trái, ông hỏi:
“Mình theo con đường nhỏ đó là vô làng nào hả các em?”
Quang trả lời:
“Vùng này làng nào cũng giống làng nào, khó phân biệt quá. Tôi không biết.”
Hạnh mau mắn:
“Các anh cứ đứng ở đây. Em chạy đến hỏi ông già đang đi đằng kia là xong.”
Ông phân vân:
“Khoan đã. Có thể đó là làng La Chữ chăng? Anh nhìn thấy quen quá. Con đường nhỏ tách khỏi Quốc Lộ, rồi cây cầu bắc ngang qua con hói nước trong, cạnh cầu có cái am nhỏ núp bóng dưới cây bàng cổ thụ, bên kia cầu những thưả ruộng trải dài dọc theo con đường đất đá đỏ…”
Bỗng Minh la lên:
“Đúng rồi. Đúng là làng La Chữ rồi. Anh đi lâu ngày mà còn nhớ, giỏi quá!”
“Minh!” Quang nói to. “Mày có nhớ chắc không?”
“Chắc mà. Em có thằng bạn trung học gốc làng La Chữ rủ em tới đây chơi mấy lần rồi.”
Ông mừng rỡ:
“Thế thì ghé thăm La Chữ một chút nghe mấy em.”
“Chi vậy?” Quang có vẻ sốt ruột. “Bà con mình có người nào ở La Chữ đâu mà ghé cho mất công. A, phải rồi, hay là anh đi tìm cố nhân. Bồ cũ ở vùng này hả?”
“Bồ gì mà bồ! Anh có hai người bạn họ Hà ở Mỹ, gốc làng La Chữ. Họ Hà Xuân và Hà Thúc. Anh muốn thăm ngôi làng nổi tiếng hay chữ này, chụp vài tấm hình. Từ đây vô đó cũng không xa mấy. Rồi khi trở lại Mỹ, kể cho họ nghe về chuyện làng của họ, chắc họ thích lắm.”
Quang vẫn tỏ vẻ khó chịu. Ông nói tiếp:
“Hôm trước ở Hà Nội anh cũng định đi Nghĩa Đô thăm giùm cho một người bạn. Cuối cùng không đi được. Cho nên lần này phải thăm La Chữ cho hai thằng bạn khác.”
Minh vui vẻ:
“Dạ, thì ghé thăm đi.”
Hạnh phụ họa:
“Dạ, vô cho biết. Mà làng La Chữ nổi tiếng về cái gì hả anh?”
“Đó là một làng văn học gần kinh đô Huế ngày xưa. Trường Thi đã được dời về đó trong một thời gian dưới triều Nguyễn.”
“Vào đời vua nào?” Hạnh hỏi.
“Cuối đời vua Tự Đức và đầu đời vua gì gì đó anh quên mất khi Tây sắp sửa chiếm Huế. Có lẽ vì vậy Trường Thi phải dời đi khỏi kinh đô chăng, bạn của anh đoán như thế.”
“Bạn của anh đoán sai rồi.” Quang tiếp lời. “Thực dân Pháp nó chiếm Nam Bộ, Bắc Bộ trước. Cuối cùng nó tới chiếm Huế thì vua Tự Đức hoàn toàn bị bó tay, tức quá mà chết. Giai đoạn Nhà Nguyễn làm mất nước vào tay thực dân Pháp tôi có nghiên cứu kỹ nên biết rõ. Nghĩa là trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng như thế, thì giờ đâu để ông vua đó lo việc dời Trường Thi. Bạn của anh sai bét.”
Sao bỗng dưng Quang nó hùng hổ thế, ông ngẫm nghĩ. Ông bỗng như sực tỉnh. Hay là vì mình vô tình có những cử chỉ không thích hợp, có cái nhìn hơi bất thường lên khuôn mặt thân yêu đó… chẳng hạn. Xa nhau lâu ngày, ông vẫn cứ nhớ Hạnh cô em họ như hồi mới lớn chưa chồng. Đẹp, ngây thơ, duyên dáng, giọng nói êm ái, thủ thỉ, con mắt trong sáng, đi, đứng, ngồi, cái gì cũng dịu dàng, khép nép, thanh tú.
Ông quay lại nhìn Quang, một chút áy náy, ăn năn. Rồi vui vẻ cười với Quang:
“Mà bạn anh đoán cũng có thể đúng đấy, chú Quang ơi. Người địa phương nói về địa phương của mình, dù có tô điểm thêm chút ít, vẫn thường đúng hơn những gì sách sử để lại. Sử sách có khi chỉ là sản phẩm của tưởng tượng.”
“Lịch sử mà do tưởng tượng?” Quang gặng hỏi. “Mà ai tưởng tượng vậy?”
Ông cười cười:
“Hay nói đúng hơn, do kẻ chiến thắng viết theo ý họ.”
Quang càng hùng hổ:
“Anh cũng chẳng khác gì bạn anh, lầm to. Sử sách của ta từ khi nhân dân cướp được chính luôn luôn khách quan, công bình, vô tư, và đầy sáng tạo.”
Ông buột miệng:
“Sáng tạo ra sử mà bảo là khách quan?”
Quang đáp:
“Khách quan chứ. Khách quan trong quá trình biện chứng của nó… Vấn đề này còn dài, có dịp ta sẽ nói tiếp. Ngoài ra, anh nói đúng. Nói tới địa phương của mình ai cũng ưa thêm bớt, màu mè. Chỉ khi nào thế giới đại đồng, không còn biên giới giữa các quốc gia, và con người trở thành con người mới, không giai cấp, mình vì mọi ngươì, mọi người vì mình, họa chăng… lúc đó anh có thể tin lời bạn anh nói.”
Hạnh có vẻ bồn chồn, gượng cười:
“Trời nóng quá. Cái nóng đuổi riết không tha. Mới dừng xe lại, nó ập tới ngay. Thôi, thôi, xin các anh! Nói chuyện khác đi Quang. Anh Khê ơi, mà Trường Thi là cái gì hả anh?”
Ông biết Hạnh không còn lòng nào quan tâm đến chuyện trường thi nữa. Hỏi cho có hỏi. Ông cũng nhận ra cái anh chàng Quang này “có lập trường kiên định” lắm, khó thông cảm, khó đối thoại. Ông cũng trả lời cho có trả lời:
“Là nơi thi cử.”
“Nhưng, ví dụ được chọn làm nơi thi cử phong kiến gì gì đó là một chuyện,” Quang chen vào. “Còn nhân dân trong cái làng ấy có học tốt, có đi đúng đường lối, có tiến bộ, có tích cực, có… hay không, lại là chuyện khác. Đó là vấn đề nguyên tắc. Đó là quy luật.”
Lạc đề, nói như vẹt, không hiểu mình nói gì, ông ngẫm nghĩ. Đã thế, mình thử đùa dai:
“Người ta bảo Huế ngày xưa có mấy ông hoàng học hành tiến bộ và đúng đường lối lắm, như hạn Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương. Ngoài Hoàng Tộc, còn có mấy họ đỗ đạt lớn, nổi tiếng, làm quan to. Chẳng hạn như họ Hà Thúc, Hà Xuân, họ Thân Trọng, họ Nguyễn Khoa, vân vân. Nhà từ đường họ Hà Xuân, Hà Thúc đặt tại làng La Chữ. À mà còn câu phương ngôn nổi tiếng này nữa, nghe có tin nổi không, ‘Thân không nhà/Hà không dân’.”
Quang phá ra cười:
“Không nhà, không dân mà gọi là nổi tiếng! Anh Khê đi lâu ngày quên cả tiếng mẹ đẻ. Nhưng nghĩ lại cũng đúng thôi. Quan lại phong kiến bóc lột trước kia làm gì có dân. Ngoài ra…”
Ông hơi bực mình, ngắt lời:
“Không phải. Câu đó có nghĩa như thế này: người họ Thân Trọng, gốc làng Nguyệt Biều thì phải, không ở nhà tranh, nhà lá, chỉ ở trong những dinh cơ lớn lao. Còn người họ Hà làng La Chữ thì hết đời này đến đời khác đều làm quan, không có ai là bạch đinh cả.”
“Quang ơi,” Hạnh nhỏ nhẹ. “Anh hố rồi! Thôi, anh em mình rẽ vô thăm làng La Chữ một tí rồi đi.”
Có lẽ vì bị hố, Quang cau có nói lớn:
“Thăm? Khi về rồi hãy thăm. Bây giờ đi thăm mộ cái đã. Thêm râu ria hoài sẽ làm rách việc. Làm cái gì cũng phải theo đúng kế hoạch cụ thể, theo đúng phương hướng đã nhất trí từ trước.”
Minh lầm bầm:
“Rách việc, cụ thể, nhất trí. Nghe mệt cái lỗ tai.”
Quang sừng sộ:
“Mày biết cái mẹ gì mà cũng ưa phát biểu linh tinh!”
Nói xong, không chờ ai đồng ý, Quang ngồi ngay người lại, rồ máy phóng nhanh. Hạnh ngồi sau níu lấy vai Quang la to khoan khoan. Tiếng la chìm nhanh trong tiếng máy xe nổ dòn. Minh nhìn ông Khê, chờ đợi. Ông thảng thốt, ngập ngừng trong giây lát, nhìn lại Minh, ra dấu chạy theo.
Từ đấy, có lúc Quang dẫn đầu, có lúc Minh chạy trước. Chạy hơn nửa tiếng, gặp một chiếc cầu khá dài. Ông chồm người tới hỏi:
“Cầu gì đó Minh?”
“Cầu An Lỗ.”
Vừa qua khỏi cầu Minh rẽ trái chạy trên con đường dọc theo một con sông khá lớn. Quang và Hạnh theo sát đằng sau. Ông lại chồm người lên hỏi tiếp:
“Vùng này là vùng nào?”
“Đây là xã Hiền Sĩ. Tới một chút nữa là làng Cổ Bi.”
Những địa danh đó đã nằm yên ở một góc nào trong trí nhớ nay bỗng vang lên trong đầu. Ông nghe quen quá. Bên cạnh đường, con sông xanh biếc chạy song song có nhiều đoạn nước chảy khá nhanh. Con đường nhỏ chạy theo con sông những đoạn dài.
“Sông nước trong ghê. Chắc nó không nhỏ hơn sông Hương là bao. Sông gì đó em?”
“Sông Bồ.”
Ông ngoảnh đầu nhìn. Bờ sông nhiều đoạn quá cao so với mặt nước, trông như bờ vực. Trên những cồn cát hoang nổi lên ven sông, giữa lòng sông, không thấy một bóng người, một chòm cây. Đây đó trên sông là năm ba chiếc đò rách rưới, mui khum khum hình bán nguyệt, chiếc đậu, chiếc trôi theo dòng nước trông chẳng khác gì những cánh bèo khổng lồ. Bên kia sông, những mái tranh già nua, bé nhỏ, xám xịt phơi mình dưới nắng. Về phía thượng lưu, đồi nọ đồi nối tiếp đồi kia miên man bất tận, và xa hơn nữa, ở chân trời, là những vệt xanh lam nhiều lớp mờ mờ ẩn hiện. Đó là dãy Trường Sơn.
Sông Bồn, sông Bồn, ông nhắc đi nhắc lại. Bỗng dưng nhớ những câu thơ thuộc lòng từ thời còn học trung học. Ông lẩm nhẩm đọc, cảm thấy nỗi tịch liêu của một thi sĩ sống cả ngàn năm về trước thấm vào lòng mình. Rồi ông muốn đọc cho Minh nghe, muốn chia sẻ. Một thứ tình cảm thân thương đối với Minh đã dậy lên trong lòng, dù Minh với ông không có chút liên hệ bà con nào cả. Thứ tình cảm ấy cũng đã nẩy sinh khi vài tuần trước đây ông cùng người tài xế trải qua mấy ngày ở Hà Nội, Hà Nam, Bình Lục, Yên Đổ.
Ông đọc những câu thơ ấy lên thành tiếng đủ cho Minh nghe:
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau già trúc cỗi âm thầm quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Quyên kêu sầu vượn nói véo von
Hoa xuân nở trăng thu tròn
Một mình tay chuốc chén son ngập ngừng…
“Thơ nghe buồn quá, anh.” Minh vẫn cho xe chạy nhanh, quay đầu nói. “Nhưng con sông này là sông Bồ chứ không phải sông Bồn.”
“Vậy hả? Gió tạt anh không nghe rõ.” Mà sông Bồn và sông Bồ có lẽ cũng cô quạnh như nhau, ông ngẫm nghĩ.
Ông nhớ tới thời còn đi học tại Huế. Thời đó, loạn lạc liên miên, tai ương dồn dập. Đường sá thường bị đào hào, đắp ụ, xe cộ thường bị đặt mìn, xe lửa cũng như xe hơi. Cho nên ông ít có dịp đi xa thành phố, không biết có con sông Bồ chảy qua đây. Rồi đất nước chia đôi. Tiếp theo là những ngày thanh bình ngắn ngủi, ông lại vào Sài Gòn. Ông hỏi tiếp:
“Hồi nãy nếu không rẽ trái mà rẽ phải, thì tới mô?”
“Sịa.”
“Còn cứ chạy thẳng?”
“Thì tới cây số 27 nơi trước kia có sư đoàn 101 Dù Hoa Kỳ trấn đóng. Rồi đi ra quận Phong Điền.”
“Tức là giáp ranh với Quảng Trị?”
“Chưa anh. Còn phải đến Phò Trạch, Mỹ Chánh, Diên Sanh, rồi mới tới Quảng Trị.”
“Em giỏi lắm. Biết hết.”
“Sau 75 em có đi lao động ngoài Quảng Trị, Đông Hà gần hai năm. Cực khổ nhưng có lẽ còn đỡ hơn mấy đứa bạn đi tù cải tạo. Mỗi tháng em đạp xe đạp về Huế thăm nhà một lần.”
Mỹ Chánh! Phố Buồn Hiu! Đại Lộ Kinh Hoàng! Cổ Thành Quảng Trị! Cờ bay, cờ bay! Ông cố nén tiếng thở dài.
Đúng là sông Bồ, trí nhớ trở về dần dần.
Hồi đó, lúc chỉ là một đứa bé con, nó đã nghe nói tới con sông Bồ chảy qua quê ngoại của nó là làng Vân Cù, nơi mỗi lần về thăm, nó được mọi người, nhất là cậu mợ, cưng như cưng trứng, cái làng xa xôi ấy luôn luôn gợi những kỷ niệm mơ hồ và êm đềm, nhưng đồng thời cũng ly kỳ, lạ lùng, bí mật, những thửa ruộng hẹp và dài “xanh lè” chạy theo con sông “trắng bạch” như hai con thanh xà, bạch xà trong tuồng hát bội, người chị họ bảo thế, những cây sắn to và cao, người anh họ lớn tuổi phải dùng cuốc chỉa ba cào cho hết mấy lớp đất bên trên để có thể nhổ nó lên còn nguyên hai khoanh củ, không gãy một củ nào, thế mới biết được cái tài nhổ sắn của anh, trông giống như hai nải chuối khổng lồ, sắn người khác nhổ lên chỉ có một khoanh, anh khoe, đem vô nấu, kêu con nít cả xóm tới ăn không hết, mấy con gà đá cựa dài, chân dài, cổ dài màu đỏ như huyết bầm, lông cụt trụi lụi, đuổi chó hàng xóm chạy re, gà nhà mình chó cũng phải sợ, ghê chưa, còn đàn ngỗng lông trắng phau ngày thì dọa con nít, đêm thì canh ăn trộm, hai con mèo mà anh gọi là linh miêu lông đen, mắt vàng, nuôi không phải để bắt chuột, chuột đã trốn biệt hết từ lâu, mà để bắt chim két, chim nhồng thường hay bay tới phá mấy cây ớt, mấy cây khế, lũ heo bụng bự trong chuồng háu đói kêu rống lên như bị thọc huyết khi nồi cám heo sôi lên bốc mùi hôi hôi, nồng nồng, đụn rơm cạnh cái sân đất nện cao gần tới đọt cau vừa nóng vừa xót làm chỗ chơi cút bắt, ù mọi, vật lộn của tụi nhỏ, mấy con trâu đen làm việc xong nằm lười nhai cỏ thở phì phò như thổi kèn cạnh bụi tre lá ngà sau vườn kêu kẽo kẹt như đưa võng suốt ngày đêm, nhưng điều khiến nó ngạc nhiên nhất là nhà cậu mợ cũng như nhà của tất cả mọi người khác trong làng đều làm bún đem đi bán cho mọi nơi, bún tươi, bún khô, bún con, bún lá, bún mớ, bún sợi, nhà ai nghèo không có thịt, tôm, cá, giò heo cứ lấy bún đó ăn với nước mắm ớt tỏi chanh đường cũng đủ tuyệt trần, cho nên đi đâu, từ làng trên đến xóm dưới, ngày cũng như đêm, đều nghe tiếng chày đạp giã bột làm bún nghe thùm thụp như nện đất, những lúc nó không biết làm gì, chạy tới đứng bên chị họ chìa chân ra đạp giúp, chị khen nhờ em chị chỉ đạp nhẹ thôi mà cái chày to tướng, nặng trịch cũng phải ngóc đầu lên cao, buông chân ra là nó nện mạnh “như trời sập” xuống cái cối bột gạo, chị một chân đạp, một tay vịn vào cái sào treo ngang trên trần nhà, nó thấp quá vói tay không tới sào ngang cũng một chân đạp, một tay níu áo chị để đứng cho vững, rồi là những chuyến đi xa, đi tới làng Triều Sơn coi chằm nón, nón lá, nón quai găng tức là nón Gò Găng, tới làng Nam Thanh coi nung gạch, coi khói trắng phun lên trời cao từ ống khói mái lò, đi xa thêm sẽ tới làng Hương Cần giàu có, trồng quýt ngọt như đường phèn, bỏ ra mấy “trự” là mua được cả rổ, ăn đến phình bụng, nhưng chưa bao giờ nó được qua bên tê sông Bồ tới làng Phù Lương, nghe nói đó là quê ngoại của ông vua hung dữ, ngang tàng, ghét Tây, ghét Y Pha Nho, nhưng lại thương gái, mê cả tượng đá đàn bà, ngứa tay rờ vô một cái vú đá của bà tiên trên núi Non Nước Ngũ Hành Sơn trong xứ Quảng, vú đó tịt luôn, sữa hết chảy, còn lại vú kia nước rỉ đều đều cho đến ngày nay và mai sau, đúng là chân mạng đế vương mà, nghĩa là chi hè, rứa mà bọn Tây dám “đổ hô” ông vua đó mắc bệnh điên để “thỉnh” vua đi mô bên Phi Châu không ai biết, điên thì “mời” vô nhà thương chơ răng lại bắt đem đi xa tít mù cà cưỡng, tụi Tây rứa là ngu hết chỗ nói, rồi lại tới phiên con ông vua đó, chắc chắn là học giỏi, không điên mà cũng bị đưa đi “sum họp” với vua cha bên Phi châu cho tròn chữ Hiếu…
Thời thơ ấu và quê ngoại nằm luôn trong trí nhớ! Hôm qua ông về quê ngoại. Chiến tranh tàn phá, dân làng chạy tan tác khắp nơi. Tản cư. Hồi cư. Rồi tản cư. Người cũ thưa dần, người mới tụ lại. Bà con không còn một ai. Cậu mợ qua đời lâu lắm rồi.
Nhưng sông Bồ vẫn còn đó. Sông Hương và sông Bồ, hai con sông lớn, ôm ấp lấy Thừa Thiên Huế, rồi cùng với sông Ô Lâu rủ nhau đổ ra Phá Tam Giang trước khi về Biển Mẹ. Ông tự dưng nhớ mấy câu thơ:
Gió khua con nước nước trôi nhanh
Nắng rải mênh mông sóng dập dềnh
Phá Tam Giang ba con sông biếc
Hẹn gặp nhau rồi ra biển xanh
Tháng ba quân Cộng tràn vô Huế
Trôi giạt về đây nghe có em
Mùa khô biển mặn chưa vùi lấp
Bãi cát vàng những gót chân êm…
Này Sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu! Có khi nào hờn dỗi nhau không, xin cho hỏi? Sao cô chị xinh đẹp, duyên dáng, đài các, tiếng tăm vang lừng khắp chốn như thế, trong khi hai cô em đơn sơ, mộc mạc, có lúc gắt gỏng, cộc cằn, sống lủi thủi, âm thầm nơi quê xa như không muốn ai ngó tới.
“Sắp tới chưa Minh?” Ông hỏi.
“Không còn xa mấy. Mộ ngài ở Hiền Sĩ.”
Minh vừa nói vừa cho xe giảm tốc độ, và quay đầu nhìn kỹ những con đường xóm bên phía phải. Bên trái là sông Bồ chạy song song. Quang chở Hạnh từ đằng sau vượt qua, nói vói:
“Tới chưa? Răng lâu rứa?”
Hỏi thế nhưng Quang vẫn lái nhanh trên con đường nhỏ chạy ven sông. Con đường trông như con rắn khoan cặp nia, cặp nong dài dằng dặc bò qua những lũy tre, những ruộng đồng, làng xóm, có đoạn đã được tráng nhựa đen, có đoạn đá dăm lởm chởm, có đoạn cỏ mọc lan vàng vọt. Thỉnh thoảng gặp những lớp rơm rạ phơi đầy mặt đường, xe cứ việc loạng choạng lăn bánh qua. Ông vội la to cho Minh và Quang nghe:
“Chạy cẩn thận! Coi chừng cán lên rơm của người ta.”
“Không sao,” Minh đáp. “Rơm rạ phơi trên đường cốt để xe cán lên. Cho mau khô.”
Bỗng Minh la to dừng lại, dừng lại. Bọn họ rẽ vào một xóm vắng, và dừng xe trước một lều tranh thấp và nhỏ bỏ hoang. Dường như dùng làm chuồng trâu thì phải.
“Lạ thiệt,” Minh thắc mắc. “Qua khỏi hai lùm tre lớn là mộ Ngài. Sao bây giờ không thấy. Chắc mình lộn xóm.”
Quang cũng vừa dừng xe lại, càu nhàu:
“Mày bảo biết đường mà? Biết cái kiểu gì vậy?”
Minh đáp:
“Đừng nóng. Từ từ.”
Mọi người lên xe chạy tiếp. Vào ba xóm nữa cũng không tìm ra. Bỗng Quang nói lớn:
“Tốp, tốp. Không lộn đâu, Minh! Tao nhớ ra rồi.”
Minh cự nự:
“Anh chưa đi thăm lần nào cả thì nhớ cái chi.”
“Mà vẫn cứ nhớ mới tài,” Quang trả lời chắc nịch. “Tao nghe nói, tao nhớ ra rồi, mộ Ngài đã bị tụi Mỹ nó cào sạch. Bây giờ đến đây không tìm ra tao mới tin đó là sự thật.”
Ông ngạc nhiên:
“Mỹ cào mộ?”
Mọi người dựng xe cạnh một con đường mòn chạy men theo những khoảnh vườn trồng khoai lang, sắn, cà tím, bắp… Nắng quá, thiếu nước, cành lá vàng cháy, ủ ê. Ông đảo mắt nhìn quanh. Hạnh kiếm được một phiến đá phẳng, ngồi xuống, giở nón ra quen tay vẫy nhẹ. Bỗng Quang bước tới gần ông, nghiêm mặt nói:
“Anh ngạc nhiên lắm sao? Có điều gì mà bọn Tư Bản không dám làm.”
Hạnh lườm Quang:
“Anh nói ngang xương như rứa ai mà hiểu nổi. Em biết anh định nói chuyện chi rồi, nhưng em phải kể lại cho có đầu có đuôi. Chú Minh lúc đó còn nhỏ chưa biết chi, mà anh Khê thì ở tuốt trong Sài Gòn ít khi về thăm nhà. Có một độ đánh lớn tại vùng này, vào năm 70 thì phải. Mỹ có đặt mấy cái đồn nhỏ gần đình làng Hiền Sĩ. Còn Sư Đoàn Dù của họ đóng xa hơn … Quang, Quang, để em nói cho hết, đừng ngắt lời.”
“Nhưng những chuyện đó em làm sao biết được,” Quang hằn học.
“Đó là chú của em kể cho nghe chớ không phải em bịa đặt đâu.”
“Nghe em kể chuyện con cà con kê,” Quang nói tiếp, “anh sốt ruột quá. Việc đã xẩy ra hơn 30 năm về trước, nay nói lại theo lời đồn đãi chắc gì đã đúng.”
“Còn anh thì nói theo lời gì? Em không dựa vào tin đồn đâu. Đây là chuyện có thiệt mà! Em đã nói với anh là chú em kể lại cho em nghe, chứ có phải em nghe lời đồn đãi đâu. Hồi đó báo chí cũng có đăng.”
Không đợi cho Quang nói thêm, ông can thiệp:
“Thì cứ để cô Hạnh nói cái đã nào!”
Quang buông tay xuống thọc vào túi quần jeans đi lui đi tới, đưa mũi giày đá văng mấy hòn sỏi nằm trên đường. Một lớp bụi đỏ bay lờ vờ. Chiều đã xuống. Nắng bớt gay gắt. Hạnh đứng dậy tránh lớp bụi, và làm như không để ý đến thái độ của chồng, tiếp tục câu chuyện:
“Dạ, em xin tiếp. Chú Định, anh Khê nhớ chú Định chứ, lúc đó là đại uý quân đội Cộng Hoà, đóng ở Phong Điền, không xa Hiền Sĩ là bao. Em kể ngang đâu, à đánh nhau lớn. Du kích thường hay tới đây núp sau mộ Ngài bắn tỉa vô đồn Mỹ, gây thương vong đủ thứ. Mộ ngài to lớn, vững chắc như cái pháo đài. Trong một trận đánh lớn, Mỹ đem máy bay tới dội bom tiêu diệt một số du kích ẩn núp trong ngôi mộ, rồi sau đó cho xe ủi đất tới san bằng …”
Quang định lên tiếng, Hạnh nói át:
“Nhưng Ngài công đức và linh thiêng lắm nên dân địa phương đã tìm được bia mộ của ngài, cất giữ, rồi giao lại cho bà con mình. Nay ngôi mộ đã được xây lại đàng hoàng tại vị trí cũ, tuy không to lớn bằng. Với lại giả sử bà con mình chưa kịp xây lại đi nữa, Ngài cũng đã từ lâu đuợc thờ phụng trong Thái Miếu như là vị khai quốc công thần triều Nguyễn. Ngài là con thứ 10 của chúa Nguyễn Hoàng, lập nhiều công trạng lớn lao, về sau được vua Gia Long thụy phong Nghĩa Hưng Quận Vương.”
Minh hỏi:
“Thụy phong là cái gì?”
“Chị không biết,” Hạnh đáp. “Nghe nói rứa, chị lặp lại.”
Ông định giải thích, nghĩ sao lại thôi. Quang lên tiếng:
“Tưởng gì. Nói loanh quanh cho lắm rồi cũng đi tới chỗ Mỹ cào mộ.”
Ông quay lại hỏi Minh:
“Vậy thì vùng này hồi đó là vùng xôi đậu?”
“Nơi nào mà không xôi đậu.” Quang tranh đáp. “Để tui nói cho nghe. Trước đây chiến khu Cách Mạng nằm sâu trong kia. Cứ theo con đường ven sông Bồ đi vào, rẽ qua phía làng Cổ Bi, rồi đi sâu thêm sẽ gặp suối nước nóng Thanh Tân, nay là khu du lịch có tiếng. Đi thêm mươi cây số nữa là tới chiến khu Hòa Mỹ. Đó là một căn cứ lớn của Cách Mạng. Đó cũng là quê hương của người dân tộc Pahi. Hồi Mậu Thân sau khi rời Huế, bộ đội và những người mới theo đều tập trung về Hòa Mỹ trước khi rút lui vào Trường Sơn để bảo toàn lực lượng.”
“Theo hay bị bắt đi theo?” Minh cười cười.
“Tùy,” Quang gắt. “Muốn biết rõ mày cứ đi tìm những người đó mà hỏi. Chuyện hiển nhiên như thế mà cũng thắc mắc.”
Ông không thể giữ im lặng, nói:
“Có lẽ họ đi theo.”
Quang nhìn chừng chừng dò xét. Ông tiếp:
“Vì những người không được cho đi theo, không được cho ở lại, hoặc không chịu đi theo, đều đã bị chôn sống trong nhiều đám mồ tập thể. Cả hàng ngàn nạn nhân bị Cộng Sản chôn sống trong tết Mậu Thân.”
Quang quay ngoắt người lại trợn mắt nhìn ông, nói như hét:
“Anh nói cái gì, hả, hả?”
Ông chau mày nhìn thẳng vào mặt của Quang, chưa kịp phản ứng, thì Hạnh đã hoảng hốt nói lắp bắp trong nước mắt:
“Hai anh… hai anh ơi, hai anh nói cái chuyện chi chi rứa hả hai anh? Nghe em nói đây… Mình quá lâu ngày nay mới được gặp lại nhau như thế này. Gặp một lần… rồi biết có còn gặp nhau lần thứ hai nữa hay không! Thì, thì… Minh ơi, có lẽ Minh đi lộn xóm rồi. Chiều chị một chút đi, đừng đứng ở đây nói qua nói lại nữa! Đi đi hai anh, đi đi Minh. Đi tới thêm một xóm nữa coi thử ra sao. Nghe anh Khê, anh Quang! Thương em một chút đi!”
Tiếng nói đầy xúc động ấy có tác dụng như một làn gió mát làm dịu bớt cơn sốt đang bùng nổ. Trời tối dần. Minh nhìn ông buồn bã:
“Lỗi ở em. Em cứ ỷ y tưởng rằng không có gì thay đổi nên không lo hỏi trước. Trở lại đây mọi thứ đều khác xưa. Nhà cửa, đường sá, cây cối đều lạ hoắc. Tìm một chốc nữa nghe anh!”
Ông Khê lạnh lùng. Minh lo âu. Quang như cái bóng lặng câm. Hạnh thỉnh thoảng buông tiếng thở dài.
“Thôi, để dịp khác thăm,” ông nói như nói cho mình ông nghe.
“Nhưng mai anh đi rồi,” Hạnh nói giọng nghèn nghẹn. “Em biết anh cần thăm mộ Ngài lắm. Anh là hậu duệ dòng chính của Ngài mà. Cố tìm thêm chút nữa, thưa anh.”
“Thôi, cô Hạnh,” ông đáp. “Tối quá, có thấy gì đâu.”
Xa xa con sông Bồ âm thầm thao thức ôm lấy những cồn cát hoang vắng giữa lòng sông. Những chiếc đò rách nát hẳn đã tìm được chỗ đậu qua đêm trên một bến cô liêu nào. Không có trăng. Sao mọc lưa thưa lúc mờ lúc tỏ qua những đọt tre xơ xác ngả nghiêng. Gió từ thượng nguồn con sông thổi về lành lạnh. Chiến khu Hòa Mỹ nằm khuất nơi đâu? Những người thuộc sắc tộc Pahi quanh năm sống bám vào miền đất hiểm trở ấy bây giờ hẳn đã yên giấc ngủ từ khi mặt trời vừa tắt? Dãy Trường Sơn chìm sâu trong bóng tối mịt mùng.
Từ một ngọn đồi thấp ông quay nhìn về hướng thành phố Huế. Có ánh đèn. Có dáng núi đồi quen thuộc. Có dòng sông chảy mãi trong ông dù ông lưu lạc ở phương trời nào. Có xóm làng, láng giềng, ngôi đình, cây cau, bụi chuối, đụn rơm, lũy tre. Phải chăng tất cả vẫn còn ở đó? Hình như không phải thế. Tất cả đang biến hình thành nắm cát khô trong lòng bàn tay chực vuột ra khỏi những ngón tay càng ngày càng gầy guộc.
Nhiều năm trước ông đã bỏ nước ra đi. Ông nhớ một nhà văn trẻ tuổi người Đức, Bernhard Schlink thì phải, viết đại khái rằng đào thoát không phải chỉ là bỏ đi mà còn tìm thấy một nơi nào đó để đến. Nay ông đã xa quê hương và đến nơi đó, và lại quay về tìm chốn cũ.
Có muốn và có thể ở lại mãi nơi chốn cũ này hay không? Homecoming! Odysseus! Lưu lạc mấy mươi năm mới trở về được quê hương, rồi liệu có thể tiếp tục ở lại đấy mãi mãi? Người ta có thể nào hai lần tắm trên cùng một dòng nước!
Ông lại nghĩ đến ngôi nhà từ đường trang nghiêm nơi ngày xưa thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của ông, nơi ông cất tiếng khóc đầu tiên trong đời, nơi tung tăng tuổi ngây thơ, và cũng là nơi cách đây nhiều năm đã bị cháy sém một phần và hiện đang bị chiếm cứ. Nhưng không phải chỉ có thế. Quê hương, đất nước đã và đang thay hình, đổi dạng đến một mức độ khó lường. Đó có còn là chốn thiên thai của mong nhớ, của ước mơ? Hay có khi đã nằm yên trong mộ phần của tâm hồn thỉnh thoảng trở mình sống lại réo gọi?
(Còn tiếp)