Olha Kobylianska (1863-1942) sinh ở Gura Humorului, Bukovyna, thuộc dòng dõi quý tộc. Hầu hết, bà đã tự học ngoài trừ đã đến trường theo đuổi bốn năm Đức ngữ.
Bà sử dụng cả ba thứ tiếng: Ba Lan, Đức và Ukraine.
Các tác phẩm của bà bị ảnh hưởng bởi George Sand và Friedrich Nietzsche. Bà quan tâm đến tầng lớp nông dân ở Ukraine, thường viết về đời sống của họ. Nội dung là sự tương tranh giữa thiện và ác, các thế lực thần bí, sự phi lý trong đời người.
Tôi bị mù.
Chẳng nghĩa lý gì khi nói về lý do tại sao hoặc chuyện xảy ra như thế nào. Nói đơn giản, chuyện khủng khiếp nhất đã xảy ra: Tôi bị mù.
Có người đàn ông khác trong bệnh viện mù, giống như tôi. Khi được ngồi bên nhau, chúng tôi cảm thấy vui lòng.
Đôi khi tôi hỏi anh bạn thiếu may mắn này. “Anh có thấy một chút nắng nào không?”
“Không, còn anh thì sao?”
“Tôi cũng không.”
Tiếp theo là im lặng. Tâm trí chúng tôi nổi lên những tìm hiểu lẫn nhau. Tại sao hai đứa lại cảm thấy vui khi ở gần bên trong một hoàn cảnh khốn khổ?
Chẳng bao lâu, họ thả bạn tôi ra. Một ngày nọ, anh nhìn thấy nắng, họ cho phép anh rời bệnh viện. Những người tử tế đã đón nhận bạn tôi. Họ cũng thả tôi ra, sau khi biết rõ, tôi sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy nắng. Bạn bè giới thiệu tôi với một nhân viên, với nhân viên này, tôi sẽ tự mình xoay sở trong cuộc sống.
Vậy đó, tôi đi trên mặt đất.
Ý tôi muốn nói, đi từ nơi này đến nơi khác. Mặc dù, đã biết không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, tôi vẫn cố gắng hết sức để nhìn nó.
Mở mắt thật lớn, lớn hơn nữa, các bạn thân mến, tôi hy vọng nhìn thấy ít nhất một mặt trời huyền hoặc… tối thiểu một đóm sáng… ít nhất là như vậy! Hy vọng có thể thấy bóng dáng một tia sáng nhỏ, Ôi, tia hạnh phúc!… Nhưng, than ôi, không. Tôi không thấy gì…
Không thấy gì…
Vì vài lý do, đi từ nơi này đến nơi khác, duỗi thẳng cánh tay phía trước mặt với ngón tay xòe ra, ngẩng đầu cao lên, như thể đang sẵn sàng đón một tia nắng thoáng qua. Tôi làm như vậy dù biết mặt trời không để nắng bị bắt – nghĩ cho cùng, đó là mặt trời! Đôi khi dường như các đầu ngón tay tôi sắp chạm vào nó – sau đó, mới nhận ra, thứ mà tay tôi chạm là tiền cắc đến từ lòng từ thiện.
Tôi nhắm lại vì nước mắt đã rưng rưng.
Tôi nhắm lại vì nước mắt đã lưng tròng – những giọt nước mắt dịu dàng để chấp nhận và biết ơn những tặng vật đã cho tôi.
Nước mắt tự động tuôn trào. Tôi không làm gì để kích động chúng. Hồn tôi vốn tối tăm, dẫu đã mở rộng, rộng bằng đôi mắt. Tôi căng thẳng lắng nghe, dường như, một số dấu vết nắng trời tràn ngập đời sống chung quanh. Cúi đầu thất vọng, tôi chìm sâu vào tận thâm tâm, cố gắng phát hiện dù chỉ một chút nắng trời hay ánh sáng, biết rằng, chưa có người mù nào bắt được ánh sáng mặt trời bằng tâm tư, tôi cũng vậy.
Ánh sáng mặt trời…
Tôi gọi các bạn! Hãy nghĩ rằng đây không phải là tiếng kêu của người bình thường, mà là tiếng kêu của một người mù. Không nghe rõ, không cầu xin theo bất kỳ cách nào, như tình cờ… vì làm sao tôi có thể khẩn cầu bằng lời lẽ như “Ôi, xin mặt trời ban phước!” rồi nói thêm, “tôi đã bị mù…” Mặt trời chiếu sáng cho vạn vật…
Sáng tỏa trong rừng núi, cho loài người. Dù chỉ là một vũng nước đọng, tia nắng mặt trời cũng tìm đến nơi. Tuy nhiên, theo luật muôn đời, mặt trời không bao giờ chiếu cho người mù thấy ánh sáng.
Rồi tôi chìm vào vực sâu của tâm hồn.
Hồn tôi trở nên đen tối theo chiều sâu thăm thẳm. Buồn thảm như đôi mắt mù. Tôi mở mắt trước các bạn, bạn ơi! bạn nhìn thấy tôi – nhưng tôi không còn nhìn thấy các bạn! Bây giờ không thấy và suốt đời không thấy, không bao giờ thấy các bạn một lần nào nữa. Tôi chấp nhận, bạn ơi: tôi chấp nhận sẽ không bao giờ – hãy nghe tôi – suốt đời còn lại sẽ không bao giờ trông thấy các bạn…
Đối với mặt trời, mắt tôi chỉ thất bại vì không thể phục vụ. Nhưng với các bạn, bạn của tôi, chưa bao giờ chiếu một tia sáng thực sự vào đôi mắt hoặc tâm hồn tôi.
(11 tháng Ba, 1902)
* Ngu Yên dịch theo bản Anh ngữ “The Blind Man” của Olha Rudakevuch