CHƯƠNG VIII:
NHỮNG NGƯỜI VÙNG “TRẠI”
Họ Hồ vùng Trại và sự chuyển dịch trọng tâm Đại Việt
Nhà Hán khi chiếm phần lãnh thổ phụ thuộc phía nam của Nam Việt đã ý thức rằng nơi đó có hai phần riêng biệt nên đặt hai tên là Giao Chỉ và Cửu Chân. Tên Giao Chỉ còn đưọc giải thích quanh co trong vòng văn hoá hán chứ tên Cửu Chân thật là vô vọng, chỉ có thể hiểu theo ông Nguyễn Duy Hinh là một tên phiên âm địa phương. Điều đó càng tỏ rõ thêm tính chất riêng biệt của một vùng mà lịch sử về sau vẫn đem lại nhiều chứng cớ khiến cho Lí khi dời đô ra Thăng Long đã gọi đây là vùng Trại, thấp kém hơn so với vùng Kinh họ đang ngự trị. Dưới mắt Lí Thái Tổ, dân châu Diễn ngu dại làm càn khiến ông phải đem quân dạy dỗ. Trần gốc biển nối tiếp Lí, khi mở khoa thi, lúc đầu không phân biệt (1247), sau cũng nhận ra để chia làm Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên (1258). Tuy nhiên tính chất toàn cục chịu đựng chung một nền văn hoá Hán, một lề lối cai trị chung của các triều đại Hán Đường đã bào mòn sự khác biệt vốn chỉ nổi lên trở lại khi chính quyền độc lập còn suy yếu nhưng cũng sẽ dần dần tìm cách kết hợp với nhau trong tình thế các lãnh tụ địa phương tranh nhau làm chủ nước. Hoa Lư như một điểm lưng chừng đã có họ Lê vướng víu từ Thanh Hoá đến giành quyền, vang vọng thêm một dấu ấn Chàm từ rất xa phía nam. Phía xa đó, với kinh nghiệm lịch sử về một tập họp hung hăng mà yếu ớt khiến cho các triều đại Thăng Long coi thường, đem quân lấn chiếm sau khi đã rải người thân thuộc cai trị yên tâm trên vùng Trại.
Tuy nhiên, lại cũng vì khả năng có hạn, Lí với tính cách ông chủ ruộng lớn lại phải chịu đựng một liên minh với các vọng tộc vùng phía nam mà đặc biệt là với tộc họ Lê. Không hẳn những người này đều xuất phát từ một nguồn gốc nhưng các họ mang một chữ Lê cứ ẩn hiện thường trực như một thế lực không thể coi thường ở vùng Trại này – một chừng mực nào đó có thể coi như trường hợp họ Nguyễn thời cận đại. Đã có Lê Lương của thời Đinh, dây dưa ruộng đất mất từ lâu mà hơn một thế kỉ sau còn đòi lại được một phần dưới đời Lí. Không cần kể đến Lê Văn Thịnh, Lê Văn Hưu, Lê Tần (Phụ Trần)… Có một Quan sát sứ họ Lê nuôi Lê Hoàn, đẩy vào nắm quyền quân sự của Đinh. Nguyễn Phu, thứ sử châu Ái thời Đông Tấn (thế kỉ IV) truyền dòng đến thế kỉ XIII mà một người đã bỏ họ Nguyễn, làm con nuôi Lê Bổng – hẳn không phải là kẻ tầm thường, để mang tên Lê Tắc lưu danh với tập An Nam chí lược. Có một họ Hồ, tự thân đã có thế lực riêng chen vào làm phò mã của triều Lí mà còn làm con nuôi họ Lê, đủ phối hợp danh vọng hai dòng họ để đi vào tông tộc Trần đầy kiêu ngạo, sinh ra vài ông vua (Hiến Tông, Dụ Tông, chưa kể Nghệ Tông…) dần dà thay đổi triều đại.
Sử chỉ ghi Quý Li xuất hiện từ sau cuộc lật đổ Dương Nhật Lễ, từ lúc Nghệ Tông lên ngôi (1370) nhưng Nguyễn Thánh Huấn, ông ngoại Quý Li, đã có mặt trong đời Thánh Tông (1274), rồi với hai người cô lấy Minh Tông, hương Đại Lại của ông đã có thực lực để mang danh nghĩa phục hồi họ Trần. Nghệ Tông lấy việc làm vua là sự bất đắc dĩ nhưng bản tính nhút nhát cũng là cơ sở cho việc ông ra những chỉ thị thu hồi các cải cách có từ trước. Đời Dụ Tông, sử quan chỉ nhấn mạnh đến việc chữa bệnh liệt dương của ông cùng nhân vật Trâu Canh, không cho thấy những cải cách xảy ra vào niên hiệu Đại Trị (1358-1369), khi Dụ Tông thoát sự kềm kẹp của ông Thượng hoàng. Chúng ta chỉ biết những cải cách của “bọn học trò mặt trắng được dùng… đem phép cũ tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc… như về y phục, âm nhạc.. không kể xiết” qua lời Nghệ Tông thôi. Nhưng cũng có thể thấy rằng với sự mở mang học vấn, tổ chức khoa cử cần thiết cho việc cai trị, lớp nho sĩ càng lúc càng hiện diện đông đảo trong triều đình tuy còn thấy cô thế trong dân gian và còn phải ép mình dưới tông tộc chủ nước.
Chiến tranh với Nguyên thu nhận một lớp người Tống không phải chỉ làm việc phụ trợ quân lực Trần Nhật Duật mà còn có ảnh hưởng trong việc buôn bán, sản xuất, thêm một lớp nho sĩ Tống thúc đẩy kiến thức của nho sĩ nội địa khiến cho họ càng thêm kiêu hãnh. Tù binh Nguyên không phải chỉ Mông Cổ mà phần lớn là cựu dân Tống mang những kiến thức, sinh hoạt mới. Khuất lấp thì có thể nhìn sự phát triển của gốm Chu Đậu đồng thời với gốm Gò Sành phương nam để thấy có vai trò của người thợ Tống. Trâu Tôn có con là Trâu Canh – như một sexologue thực thụ đời nay, làm ngự y đủ mức độ uy tín cần thiết đến mức thoát qua tai nạn quậy phá trong cung, Đinh Bàng Đức với trò leo dây làm xiếc, Lí Nguyên Cát đem hát bội vào cung (1362) ít nhiều gì cũng là nguyên cớ gây cuộc đảo lộn 1370. Mặt khác, Nghệ Tông cũng thấy đủ về thời thế thay đổi để vuốt ve nho sĩ: Mở lại các cuộc thi thái học sinh, thi Đình bỏ lửng từ lâu, khen Chu An, đưa người cùng nhóm vào thờ chung trong Văn miếu không nệ nguyên tắc đạo lí của phe Nho kẽ vạch…
Trở về với “phép cũ của tổ tông,” Nghệ Tông bảo vệ chặt chẽ nguyên tắc nội hôn bên trong, bên ngoài củng cố quyền lợi của các vương hầu tông tộc. Vương hầu khai thác đất bồi để mở rộng điền trang thành giàu có thêm. Nhưng với vai trò làm chủ trên cao, họ không trực tiếp trông coi sản xuất mà để cho các nô tì quản lí. Và cũng như trường hợp Nguyễn Chế, nô trên đất chùa Quỳnh Lâm lấy con gái Nguyễn Trung Ngạn chủ chùa theo lệnh vua, nô vương hầu trở nên giàu có như trường hợp xa về sau (1420) Lê Ngã, nô của Trần Thiên Lại, xưng vương. Đã có những nhà giàu vào đánh bạc với vua (1362), nhà giàu cứu đói (1358, 1362) theo cầu cứu của triều đình. Chùa, điền trang thu nhận thêm nhân lực những khi đói kém (1343, 1344) mà không giải quyết nổi thiên tai bởi vì lúc này hệ thống đê điều bắt đầu cho thấy nhược điểm của chúng là ngăn chặn dòng chảy không ứng cứu được vùng khai thác một khi gặp hạn hán. Thế là có những cuộc cướp bóc của “gia nô các vương hầu,” những người mang địa vị xã hội thấp kém nhưng thực ra có quyền lợi trên các mảnh đất nuôi sống họ, khiến dẫn đến những cuộc nổi loạn lớn như của Ngô Bệ (1344-1360), như người tên Tề xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương (1354), khai thác mối mâu thuẫn cũ cứ tưởng là đã tàn từ lâu.
Từ Thăng Long người ta đã thấy mối nguy hại của các điền trang rộng lớn, của các gia đình giàu có nên Dụ Tông cho kiểm kê gia sản để xén bớt quyền lực, và bà Thái hậu họ Lê thì không cho vương hầu hưởng thêm đất bãi bồi. Thế nhưng Nghệ Tông đã chận đứng các cải cách ấy lại chỉ vì nhìn cái thế lung lay của bản thân mà muốn giữ sự vững vàng của tông tộc. Và mở rộng ra là tập đoàn dân chúng cai trị dưới tay nên có lệnh đồng nhất hoá, cấm quân dân không được mặc áo, chải đầu theo người phương Bắc và nói tiếng Chiêm, Lào (1374). Hẳn là với sự hồi phục trong khoảnh khắc ấy mà người kế ông, Duệ Tông, cuối cùng thấy đủ tự tín đem quân đánh Vijaya dẫn đến cái chết thảm thương (1377). Thấy mọi toan tính vực dậy triều đại đều thất bại, Nghệ Tông đành buông tay, trao quyền hành động vào người mới: Lê/Hồ Quý Li.
Câu “Con giết cha, tôi giết vua không phải một ngày mà có…” có thể áp dụng ngay chính vào trường hợp thay đổi triều đại. Hồ Nguyên Trừng, con Quý Li, mấy mươi năm sau ở Trung Quốc nhớ về đất cũ vẫn gọi Nghệ Tông là Thái Vương với đầy giọng thân thương, kính trọng. Quý Li chỉ muốn làm người phò tá vua nhỏ như ý ông lúc dùng thiên Vô dật, tương truyền là của Chu Công Đán dạy Thành Vương lúc xưa. Chưa đủ tự tín nên khi nghe Phế Đế bàn mưu giết (1388), ông tính chuyện chạy trốn, tự tử chứ không dám chống cự. Mãi đến khi tay chân bày mưu lợi dụng mối căm ghét nín lặng của ông thượng hoàng giạn ông vua giết người con cưng (Trần Húc), lúc bấy giờ ông mới bạo gan làm việc nhờ cậy cầu may để phế vua. Cho nên những rắc rối chuyển tiếp triều đại cho thấy sự tăng tiến dần quyền lực của phe Quý Li trước sự chống đỡ lùi dần của phe Trần, trong đó có khi Quý Lí còn phải trừ bỏ vây cánh dao động của chính phe mình như lúc giết Nguyễn Đa Phương (1389). Thế rồi cái chết của Nghệ Tông (1395) làm mất một vướng mắc tình cảm và uy thế tượng trưng, Trần Khát Chân gây bạo động thất bại (1399) như một vùng vẫy cuối cùng của tông tộc Trần, đất nước Đại Việt theo đà chuyển sang triều mới (1400).
Đất Trại tuy bị coi thường nhưng không phải lạc hậu như người ta tưởng. Có trại trạng nguyên là một bằng cớ tích cực. Trong khi họ Trần làm vua mà chỉ ghi được 5 đời trên đất Việt còn về trước lại mù mờ phân vân, thì họ Hồ biết rõ ông tổ từ thời Ngũ Đại cả nửa ngàn năm về trước ở nước Tàu xa, từng làm thái thú châu Diễn, khi thuộc địa độc lập thì xuống thành trại chủ, gả con cho dòng vua mới, di chuyển làm con nuôi nương tựa họ Lê, ngoi lên len được vào cung Trần… cả một quan niệm tông phả theo văn hoá Hán được áp dụng liên tục để ghi nhớ dòng tộc. Trong sử, phần thương mại bị khuất lấp thường được cho là do quan niệm thiên lệch của các sử gia nho thần, nhưng thật ra cũng nên lưu ý rằng trách nhiẹm đó cũng thuộc về các ông vua chỉ lưu tâm nhiều đến phần ruọng đất của mình. Thế mà tuy thoáng qua chúng ta thấy sử cũng ghi các thương cảng châu Diễn thời Lí hay có thuyền buôn ghé bến, mãi đến khi bị cát bồi lấp, thương cảng Vân Đồn mới trở nên quan trọng hơn (1349) khiến Trần phải đặt quan giám sát, thu thuế. Có giao tiếp với bên ngoài nên kiến thức thông thoáng hơn, điều đó chứng tỏ trong các cải cách của Hồ Quý Li.
Bản thân Hồ cũng không thoát vòng Nho học chung nhưng ở cái thế phải phân trần cho vị trí người phụ chính của mình, ông đã đề cao Chu Công, bài bác Khổng Tử khiến Ngô Sĩ Liên phải tức giận. Dù sao thì cũng xuất thân từ địa phương, không phải dòng dõi hoàng tộc đương thời nên ông đã đem tiếng nói thông thường vào cung cấm qua sách vở dịch thuật, dằn bớt sự kiêu ngạo cao vời của lớp người mang truyền thống cách biệt kia. Tuy trông chừng nho sĩ nhưng Hồ vẫn thấy phải khuếch trương việc thi cử chi tiết hơn, có cấp bực hương, hội định kì (1396) rồi tổ chức học vấn phổ biến hơn, không phải chỉ ở kinh đô mà còn ở các phủ, lộ đặt học quan, cắt riêng ruộng đất cung ứng việc dạy dỗ, đèn sách (1397). Một thế hệ nho sĩ khác thành hình thay thế lớp nho sĩ đầu Trần tàn tạ, thấy mình bất lực không xiển dương nổi đạo Thánh, mệt mỏi bám vào quý tộc Trần Nguyên Đán đầu hàng thời thế.
Hồ sử dụng người của Trần loại ra như với trường hợp hai người con rể của Trần Nguyên Đán, những kẻ “vói cao” gặp may trong riêng tư mà không thoát quy định tầng cấp đương thời nên Nghệ Tông không dùng. Đã có người trong số mới đào tạo may mắn ngoi lên phục vụ sau thời Minh thuộc. Nguyễn Trãi có cả một tập thơ “quốc âm” hẳn cũng là thừa hưởng từ thời lao đao đẳng cấp. Nho sĩ mới học nhiều nên dài lời hơn. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều danh sĩ đương thời làm bài Phú con ngựa lá (có mặt Nguyễn Phi Khanh) để tán tụng con bọ ngựa xuất hiện lúc Hồ Quý Li xây thành Tây Đô. Thời đại của hào sĩ đã qua, nho sĩ thoát địa vị gia thần sắp bước vào địa vị “quốc thần” để tán tụng một hình thức chủ mới. Văn xuôi chuyển qua truyện tích, sử kí để lại Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử lược với ý thức tự cường từ thời chống Nguyên gây nên tính tập đoàn dân tộc rành rẽ hơn qua việc bài xích sinh hoạt phương Bắc, kì thị tiếng nói khác (Chiêm, Lào) có từ lâu bên trong tập đoàn của mình. Nho sĩ tô điểm thêm những truyện tích địa phương bằng kinh sách học được ở phương Bắc, tom góp nhiều nhân vật kết thành một hệ thống hợp lí bênh vực tính riêng biệt cho đất nước họ đang sống. Cho nên ông thổ địa Phù Đổng đã thành người hùng cỡi ngựa sắt cứu nước (Tạ Thiên Huân: “Quá Phù Đổng độ”), núi Tản Viên có Mị Nương (Nguyễn Sĩ Cố: “… Yết Tản Viên từ” 1294?) liên hệ với đền Hùng của thổ tù Thái trên đất Ngã Ba khiến cho danh tài Hồ Tông Thốc, dân châu Diễn – vùng Trại! người làm “trăm bài thơ trong một bữa tiệc” gây “tiếng dạy kinh sư,” đã làm một tổng hợp có đầu có đuôi cho một khởi thuỷ của nước Việt xa về phía Bắc, bao gồm cả hai vùng Kinh Trại, chỉ còn chờ sự chuẩn nhận của quyền bính trên cao. Việt nam thế chí, Việt sử cương mục của ông tuy còn rụt rè nhưng đã đặt căn bản cho Ngô Sĩ Liên đời sau lập nên hệ thống quốc tổ Việt. Rồi không phải chỉ ở khu vực văn học quen thuộc, lớp nho sĩ mới còn lấn qua các lãnh vực đòi hỏi nhiều biến động hơn, như Vương Nhữ Chu trong cải cách mạnh về tiền tệ liên hệ đến sự đổi thay thuế khoá, tổ chức an sinh xã hội.
Ý thức muốn làm mới, sự quen thuộc với thương nghiệp khiến họ Hồ thi hành việc tiêu dùng tiền giấy thay thế tiền đồng. Không biết những cuộc chạy loạn Chế Bồng Nga, cực nhọc cất giấu tiền đồng trong núi giữa đồng, trong tháp chùa tận xứ Lạng có ảnh hưởng gì đến quyết định này không? Không phải là một sáng kiến riêng mà chỉ là bắt chước của Trung Quốc bởi vì với Minh ngang thời đại thì đã là tiền giấy hẳn hòi rồi chứ không phải là một thứ tín chỉ có mệnh giá (Phi tiền) của Đường hay vươn đến hình thức gần với tiền giấy (Giao tử, Tiền dẫn) của Tống. Thông bảo hội sao / “Tiền giấy lưu thông có vẽ hình” của Hồ (1396) được Toàn thư ghi sơ lược: “Giấy 10 đồng [đơn vị] vẽ rong, giấy 30 đồng vẽ sóng, giấy 1 tiền [1/10 quan] vẽ mây, giấy 2 tiền vẽ rùa, giấy 3 tiền vẽ lân, giấy 5 tiền vẽ phượng, giấy 1 quan vẽ rồng.” Có loại 30 đồng, 3 tiền chứng tỏ việc tính đếm có khoản không theo thứ tự thập phân mà theo lối 60 đồng một tiền, 600 đồng một quan còn thấy cho đến gần đây. (Và đơn vị xưa cũ này cũng xuất hiện như di vật khảo cổ, tồn đọng trong ý thức người cầm quyền Miền Bắc đã cho phát hành tờ bạc 30 đồng vào dịp cải cách Giá-Lương-Tiền những năm 80 của thế kỉ XX vừa qua.) Người ta khuyến khích việc sử dụng tiền giấy bên cạnh việc ép buộc, bằng cách cho đổi 1 quan tiền đồng lấy 1 quan 2 tiền giấy. Nhà nước cấm sử dụng tiền đồng, thu về cất ở các kho, không thấy nói để làm gì. Năm 1401 họ tung tiền giấy mua lúa lập kho thường bình để điều chỉnh thời giá. Thuế má cũng thu bằng tiền giấy theo luỹ tiến như một hình thức đánh vào quyền tư hữu. Năm 1403 khi quy định đơn vị cân đong, họ cũng định giá các tiền giấy trong trao đổi, không biết có khác với năm 1396 không.
Chính sách tiền giấy của Hồ Quý Li thất bại không những chỉ vì nó đi theo một triều đại ngắn ngủi mà còn vì nó chứa đựng sự bất hợp lí không có ngay ở nơi phát xuất: Trung Quốc. Ở xứ đó người ta có tính đến việc quy định ngang giá với quý kim để bảo đảm giá trị tiền giấy, điều đó không thấy nói trong cải cách của Hồ. Tiền giấy nhỏ nhất là 10 đồng đơn vị mà cấm lưu thông tiền đồng thì những dịch vụ nhỏ hơn sẽ ra sao? Còn lấy tờ 10 làm đơn vị thì sự tăng giá hàng sẽ không tránh khỏi. Cho nên năm 1403, thấy có quy định trừng phạt các nhà buôn đồng lòng chống đối, không nhận tiền giấy, tăng giá hàng. Tiền đồng còn phải qua lò đúc phức tạp, tiền giấy chỉ cần thợ khắc khéo tay nên chỉ ba năm sau khi ra lệnh thi hành là Nguyễn Nhữ Cái in tiền để dùng cho quân nổi loạn của mình (1399). Tiền không có quý kim bảo đảm nên không dùng buôn bán với ngoài nước được (tiền đồng còn có giá trị kim loại tự thân của nó) cho nên chúng ta không rõ nhà nước có ý định giữ độc quyền ngoại thương hay không mà không thấy phổ biến chính sách nào khác.
Dù sao thì một loại độc quyền như thế cũng gây va chạm quyền lợi với những thế lực khác trong nước, mà chính yếu là thế lực tông tộc Trần. Đã nói trang điền của tông tộc Trần mở ra trên đất bồi nên lãnh địa càng lúc càng rộng thêm nhờ được phép chiếm các vùng phù sa mở ra trước lãnh địa. Người ra tay chận đứng quyền lợi vô tạn ấy là bà Phi họ Lê của Minh Tông, nghĩa là không phải người họ Trần. Quyết định ấy bị Nghệ Tông đảo ngược (1371) cùng với việc huỷ bỏ lệnh kiểm kê tài sản của Dụ Tông. Thế rồi tuy Quý Li chưa dám đụng đến các đại vương và trưởng công chúa, nhưng lẹnh hạn chế danh điền năm 1397 chỉ cho phép sở hữu 10 mẫu ruộng, còn bao nhiêu nạp cho nhà nước chứng tỏ ý định tịch thu tài sản của tôn thất Trần vốn từ lâu dùng nô tì đắp đê ngăn mặn khai khẩn ruộng, mở tư trang. Công cuộc kiểm kê tiến hành chặt chẽ hơn trong năm tiếp với việc cắm bảng tên xác nhận chủ nhân ngay nơi sở ruộng và việc lập địa bạ lưu giữ nơi công sở. Đi sâu vào cải cách thì phải đòi hỏi quyền hành, mà quyền càng lớn thì càng khiến cho tông tộc Trần lo lắng nên đã xảy ra phản ứng gây nên những vụ giết chóc lây lan cả đến những người từng phục vụ Quý Li. Tôn thất lớn chịu đầu hàng như Trần Nguyên Đán là hiếm cho nên lại cũng nổi lên hành động xưa cũ: Dời đô (1397).
Công việc xây dựng đô mới trên đất nay là làng Tây Giai, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá, nơi xưa gọi là động An Tôn, ba bề núi, phía tây là sông Mã, mang tính cách một địa điểm quân sự cố thủ hơn là một thủ đô hành chính như một viên quan nhận xét: “Đất An Tôn chật hẹp. hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị…” Nhưng đó mới là ý định chính của Hồ Quý Li khi xác nhận xây thành “cốt ở hiểm..,” không màng nguyên tắc viển vông về “đức”. Điều này là bởi ảnh hưởng từ tính chất mới mẻ của triều đại, muốn chống đối với sự đe dọa của quân Minh do tông tộc Trần trông ngóng, cầu viện và đồng thời có thể cũng là lập một vị trí gần gũi hơn Thăng Long trong việc lấn lướt Chiêm Thành như các hành động về sau tỏ rõ. Công việc xây thành đá bên trong, thành đất phía ngoài với hào thành cùng với công trình xây cất cung điện, nhà cửa, đường xá mà chỉ 3 tháng đã xong chứng tỏ lệnh được thi hành gấp gáp, vượt trên sức chịu đựng của dân chúng cho nên đã lưu truyền câu chuyện mượn của thời Tần xây Vạn lí Trường thành. Đến năm 1401 còn thấy có lệnh bồi đắp, sửa sang. Có thể người ta đã xây dựng trước những hạng mục cần thiết có tính cách thô phác, chính yếu còn thì những phần phụ thuộc, tinh tế khác phải chờ thời gian. Cho nên cuối năm đó có lệnh dỡ cung điện Thăng Long đem vào cho kinh đô mới. Thuyền đi bị gặp bão chìm nhưng vẫn còn một phần đến nơi để ngày nay công cuộc khai quật thành Hồ cho thấy các chứng tích để lại. Thế là có thêm một đô mới, Tây Đô, và Thăng Long bị hạ giá chỉ còn là Đông Đô khiến bắt đầu xuất hiện dấu hiệu khủng hoảng toàn Đại Việt trên bình diện khu vực lớn, sau vài thế kỉ các chính quyền bản xứ chiếm lĩnh thuộc địa An Nam Đô hộ phủ cũ.
Việc chuyển tiếp triều đại về Hồ (1400), đổi tên nước là Đại Ngu sau biến cố âm mưu của Trần Khát Chân thất bại càng khiến cho công cuộc kiến thiết vùng Trại cấp bách và chu đáo hơn. Đường xá được xây dựng từ Tây Đô đến châu Hoá. Chiến thắng Chiêm Thành đưa đất thuộc quyền đến xa hơn vùng Quảng Nam ngày nay, Hồ Hán Thương lên thay Quý Li, dời người đến, biên chế thành quân ngũ, cấp đất cho họ làm ăn (1403). Sử cho biết ở nơi quê gốc họ là những người có của mà không có đất, sự xác định có hơi mâu thuẫn nhưng có vẻ đó là những thương nhân chống đối tiền giấy, các cựu nô đã trở nên giàu có mà không thể thoát vị thế xã hội đã quy định của mình. Tổ chức khá hợp lí: bắt người chủ gia đình trước, đưa vợ con sau, tiếp với việc cung cấp trâu cày, trợ cấp lương khô… Cải cách nào cũng gây oán than nhưng chính lớp người ở cùng trời cuối đất này sẽ là lực lượng khởi đầu mang chiến thắng cho Lê Lợi khi có sáng kiến chiến lược chuyển quân chiếm phía nam Nghệ An.
Không phải chỉ một thành Tây Đô, họ Hồ còn xây thêm nhiều thành luỹ nữa mà nổi bật là thành Đa Bang (1405), nơi chứng kiến sự thất bại chiến lược của họ trước quân Minh. Tính cách quân sự hoá thật rõ rệt trong ý nguyện thốt thành lời của Hồ Quý Li: “Làm sao có trăm vạn quân để chống giặc Bắc?” Bởi vậy từ 1397 đã thấy có những đơn vị hành chính ngoài vòng trung châu mang tên “trấn”. Tổ chức hành chính xuyên suốt sít sao hơn, đơn giản hơn làm mất các chức vụ cơ sở cũ: tiểu, đại tư xã, đại toát để chỉ còn quản giáp. Dân đinh được kiềm tra chặt chẽ hơn, gia nô bị giới hạn, chuyển số dư vào nhà nước. “Cho nên năm Thiệu Thành thứ 2 (1402) điểm binh càng nhiều.” Vấn đề còn lại của nhà Hồ là, như Nguyên Trừng nói: “Chỉ sợ dân không theo.” Chữ “dân” hơi có chút cưỡng đoạt, theo ý người bây giờ. Dân chống đối là những quý tộc Trần và lớp liên hệ đi cầu cứu người Minh, là những kẻ thấy từ rối loạn bên ngoài, nảy sinh tham vọng tranh đoạt quyền hành bên trong như nhà sư Phạm Sư Ôn chiếm kinh thành ba ngày (1389), Nguyễn Nhữ Cái lại cũng ở vùng tây bắc Đông Đô (1399), kể cả những kẻ lợi dụng gây rối loạn nhỏ như tay phù thuỷ Trần Đức Huy. Trong tình thế bấp bênh vì cơ sở xây dựng chưa được vững vàng đó, Hồ đã không thể nào chịu đựng được cuộc tiến quân của Minh khiến cho một triều đại đầy ý chí đổi thay trở thành triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử nước Việt.
Bên kia vùng Trại: Chế Bồng Nga
Việc cắt đứt quan hệ hôn nhân với Chiêm Thành qua cái chết của Chế Mân khiến cho những vấn đề xung đột cũ nổi lên dù Huyền Trân ở Chiêm đã được trang trọng ghi vào bia đá Po Sah (Phan Rang) “là Hoàng hậu thứ nhất, là công chúa ái nữ của đấng quân vương đứng đầu các vị thánh, làm Hoàng hậu Paramesvari, tuy còn có bà “Hoàng hậu đầu tiên” sinh ra một hoàng tử. Như thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm vua Chiêm Thành mà sự kiện cậu bé về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm dứt một giai đoạn hoà hoãn của hai nước vì tình thế bên ngoài trong khi các vấn đề bên trong giữa hai nước vẫn chưa giải quyết được. Xung đột trở lại là điều tất nhiên.
Cuộc thân chinh của Anh Tông năm 1312 được ghi là do chúa Chiêm Chế Chí “phản trắc,” chuyện cũng bình thường của kẻ thắng. Nhưng ta cũng hiểu là vùng biên cương không thể nào có sự an toàn. Lại cũng vì sử Chiêm không có nhiều nên ta lấy sử Việt suy ra. Trong trận đánh 1312, phía Chiêm có “trại chủ Câu Chiêm” chịu làm nội ứng cho Trần, nghĩa là có một thế lực trên vùng biên giới không lệ thuộc vào Vijaya nhiều lắm, có thể tự ý hành động khi thấy có cơ hội thuận lợi tại địa phương. Vì thế có những chuyện “giặc cỏ” cướp đất Địa Lí (1361), cướp người đi chơi xuân (1365) bán làm nô lấy tiền tiêu. Rối loạn cung đình cũng dẫn đến nhưng vụ việc cầu cạnh, giúp đỡ. Phía Trần là vụ mẹ Dương Nhật Lễ dẫn quân Chế Bồng Nga về (1371). Không phải lúc nào phía được nhờ cậy cũng hăng hái trợ giúp vì thường người có trách nhiệm đã nhận ra thực lực không đủ, có thể dẫn đến bại vong như vụ Hoàng tử Chế Mỗ giành ngôi với Tể tướng (1352). Tên người ghi theo cách chung chung: “mỗ” – đáng lẽ phải gọi là Chế X theo cách ngày nay, chứng tỏ đương thời không quan tâm đến nhân vật này. Trần chỉ ra quân bất đắc dĩ khi ông hoàng Chàm tỉ tê với đầy tớ Minh Tông về một câu chuyện đời xưa mang tính ẩn dụ, dấu vết của sử kí làm bằng cớ cho những kiến thức văn hoá khác đến từ phía Nam mang nguồn gốc có thể xa hơn, như thần thoại Ramayana chuyển vào “truyện Dạ Xoa Vương” của nước Hồ Tôn Tinh / Chiêm Thành trong Lĩnh Nam chích quái. Quân đưa người về lấy lại ngôi, đã thua lại còn bị Trương Hán Siêu trách không nghe lời can, khiến Minh Tông nổi giận đẩy vào trấn châu Hoá, để ông than thở thân già bệnh hoạn, và phải chết trên đường về kinh. Trần cũng thua ở Quảng Nam (1367) khi phản ứng với lời đòi đất Hoá Châu của nhân vật kiệt hiệt cuối cùng lãnh đạo vương quốc Chàm: Chế Bồng Nga.
Lại cũng một bằng chứng thiếu sót về phía sử Chàm. Trong khi sử Việt ghi nhiều về thành tích của ông vua này: Quân chưa đến kinh đô vua Trần đã lo đem tiền cất giấu thật xa, quân đến, tướng cầm quân khóc lóc chia tay vua trốn chạy, thì “Niên giám hoàng gia” Chàm chỉ cho một tên: Po Binosuor với niên đại 1328-1373, rõ ràng là của người chết trước Chế Bồng Nga. Trên đất Ninh Thuận ngày nay (xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải) chỉ còn giữ lại một ngôi miếu nhỏ với một bức tượng cụt đầu (“lăng Pô Bil Thuôr”) thuộc làng Bình Ngãi (tên Chàm Boh Pălriya), nơi theo truyền thuyết, Chế Bồng Nga đã cỡi ngựa chạy về đến đấy chết nên còn bộ áo giáp viền chỉ vàng được ông Thầy Cả cất giữ. Chúng ta không hiểu tại sao mộ không ở Vijaya / Bình Định mà là Panduranga. Hình như điều này liên hệ đến tính chất tôn giáo của ông.
Đã có những nhận xét từ lâu, hoặc coi Chế Bồng Nga là nhân vật kiệt xuất đột biến, hoặc chỉ là tia nắng quái chiều hôm của lịch sử vương quốc Chàm nhưng chưa ai giải thích được vì sao con người này xuất hiện. Phải có một cơ sở nào để tạo sự thống nhất quyền lực trên đất Chàm trong thế kỉ XIV này. Với những phát hiện khảo cổ học gần đây trên đất Bình Định và nhờ một ngành mới, khảo cổ học dưới đáy biển, nghiên cứu trục vớt những thuyền đắm, và xét riêng về một loại hàng hoá: đồ gốm sành sứ, người ta tưởng có thể tìm ra một giải đáp cho vấn đề này. Phối hợp với các sự kiện lẻ tẻ được biết từ lâu trong truyền thuyết, trên thực địa, giả thuyết bỗng trở thành như hiện thân của lịch sử, không phải chỉ của cá nhân Chế Bồng Nga mịt mù mà còn là cả vương quốc Chàm trong khuất lấp.
Nguyên khi khai thác những con tàu đắm ở Pandanan (Philippin), Koshichang (Thái Lan) niên đại 1403-1442 và khảo sát di chỉ khảo cổ Junfa (Ai Cập) niên đại thế kỉ XV, người ta thấy một loạt gốm dễ ghép vào với gốm Trung Hoa. Nhưng trước, sau 1975, ở An Nhơn (Bình Định) người dân đã nhặt được một số đồ gốm loại men ngọc xanh, xám nhạt đem ra bán ở thị trường, và lọt vào mắt một nhà chuyên môn. Người ấy nhận ra đó là một loại riêng biệt, giống với gốm trên các thuyền đắm, và vì đấy là vùng Chàm cố cựu nên được cho là gốm Chàm. Nó cũng mang tên gốm Gò Sành, nơi được khảo sát kĩ lưỡng qua 4 lần khai quật 1993-1995, với dấu vết 20 lò gốm cổ, thu gần 6000 vật gốm làm bằng bàn xoay, nhiều loại hình với kĩ thuật tạo dáng cao cấp… Các cuộc khai quật nhiều khu lò gốm khác ở Bình Định và mộ táng Đại Lào, Đại Làng (Lâm Đồng) làm vững chắc ý kiến cho rằng có một loại gốm Chàm ở vùng Vijaya xưa tạo nên một dòng thương mại phồn thịnh trong các thế kỉ XIII-XIV, và thế là dễ dẫn đến suy nghĩ về căn bản vật chất làm nên một thời đại hưng thịnh dưới quyền lực của Chế Bồng Nga. Chính sử quan Việt cũng nhận ra có sự thay đổi khác thường. “Chiêm Thành từ đời Lê, Lí tới đây, quân lính hèn nhát, hễ quân ta đến là đem cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến Bồng Nga, La Ngai mới tập họp dân họ lại, bảo ban dạy dỗ, thay đổi dần dần thói cũ, trở nên can đảm hăng hái, chịu được gian khổ, nên thường hay sang cướp, trở thành tai hoạ của nước ta.”
Nhưng đặt tên gốm (của người) Chàm dễ dẫn đến ý nghĩ gán cho thời điểm cuối cùng của nó là cuối thế kỉ XV, trùng với sự kiện Lê Thánh Tông chiếm thành Chà Bàn (1471), thường cho là điểm kết thúc thời vương quốc Chàm. Các nhà nghiên cứu không màng đến lịch sử địa phương (Aoyagi Yogi) thì thấy rằng gốm Gò Sành còn có mặt trên thị trường đến thế kỉ XVI- XVII, thậm chí XVIII, nghĩa là không tùy thuộc vào trận Chà Bàn. Làm sao giải mối mâu thuẫn này? Người ta rụt rè đề nghị gốm có thể là của người Trung Hoa làm trên đất Chàm. Điều này không phải là vô lí nếu xét đến tính chất gốm cao cấp như Gò Sành đòi hỏi phải có tổ chức, kĩ thuật không thể thấy ở người Chàm ngày nay vốn không biết đến bàn xoay, chỉ nung gốm ngoài trời, loại gốm gia dụng đơn giản: nồi, trả, vò, lu… Lối nung gốm ngoài trời cũng phản ảnh trong tích xưa về việc tranh đua xây tháp với người Việt, thua vì người Việt (cụ thể ở Phú Yên là ông Lương Văn Chánh của chúa Nguyễn) làm bằng giấy bồi, thua tiếp vì cuộc thách đốt tháp, người Chàm đốt đống gạch chỉ thấy chín đỏ trong khi người Việt đốt giấy tan tành trong giây lát! Học giả không đi xa hơn đề nghị có lẽ vì không nghĩ ra đối tượng cụ thể, không nhìn thấy lớp người Tống bị Nguyên xua đuổi xuống phương nam, lớp người biết tạo gốm celadon nổi tiếng.
Không kể quân Tống nằm dưới quyền Trần Nhật Duật, sử đã ghi chuyện năm 1274, lúc Mông Cổ vượt Trường Giang uy hiếp Nam Tống, 30 thuyền biển Tống chở đầy của cải, vợ con đến Thăng Long tụ tập buôn bán. Những người đó được sử cũ gọi là Hồi Hột vì lẫn lộn với các thương nhân Islam đến buôn bán trong vùng. Văn nhân Tống nằm trong sách của Lê Tắc với những uẩn khúc của kẻ lưu vong, quyết liệt từ bỏ hay hồi đầu về cố quốc để mang tiếng bội phản với đất nước tạm dung. Trên đất Chiêm Thành, trong trận chiến với Toa Đô ta cũng gặp họ ở thế trên đe dưới búa nơi đất lạ. Nhưng ở Đại Việt họ đã lấn một đền thờ cá voi Việt Chàm, thay bằng bà phu nhân Tống thành thần linh thiêng đến báo mộng với Anh Tông trong chuyến đánh Chiêm (1312) qua cửa Cờn. Tính chính trị lấn át chất kinh tế khiến ta khó nghĩ rằng những người lưu vong đó đã đem kĩ thuật gốm cao cấp sản xuất hàng trên đất dung thân, và vì ở địa điểm mới nên có khác với hàng cùng loại nơi cố quốc. Ở Đại Việt đã có một truyền thống gốm cao cấp nhưng sự nở rộ của gốm Chu Đâu (Hải Dương) từ cuối thế kỉ XIV, thịnh vượng trong thế kỉ XV-XVII và tàn tạ trong thế kỉ XVII, giống như đời sống gốm Gò Sành, cũng cho ta một suy nghĩ về ảnh hưởng này.
Hốt Tất Liệt đã từng đòi hỏi Đại Việt giao nạp những thương nhân Hồi Hột gốc vùng Trung Đông, lúc bấy giờ đang đi lại buôn bán trong nước. Sinh hoạt thương mại phồn thịnh trên biển Đông cũng thấy dấu vết trên đất Chàm với chứng kiến của Đoàn Nhữ Hài trong hai chuyến đi sứ (1300, 1303) về cảng Tì Ni (Chiêm Thành Cảng của Nguyên sử), là “bến tàu xung yếu,” nơi tụ tập thuyền buôn, “người buôn bán phức tạp.” Một tay có khả năng như Chế Bồng Nga hẳn có thể lợi dụng tình thế đó để chấn hưng xứ sở. Hơn thế nữa, ông đã chuyển hướng tín ngưỡng, đi theo với thời đại để tác thành sự nghiệp: Có những bằng chứng cho thấy ông đã theo Hồi Giáo, bằng chứng rải rác trong truyền thuyết, gián tiếp từ trong lịch sử muộn màng mà nếu ta nhận ra thì sẽ giải toả được hết những thắc mắc về con người tài ba mà khuất lấp trong lịch sử này. Ngày nay, dân chúng Chàm chăm sóc đền thờ ông trong vùng, dù không theo Hồi Giáo cũng không ăn thịt heo vì theo truyền thuyết: Chế Bồng Nga không ăn thịt heo. Trong lễ chém trâu ở núi Đá Trắng thôn Hữu Phước, người ta dành cho ông một mâm cúng riêng ở khu vực các nữ thần cũng vì truyền thuyết nói rằng sinh thời ông ưa thích phụ nữ! Suy đoán gán ghép hơi mỏng manh nhưng sự lưu truyền đó lại chứng tỏ chất Hồi Giáo khác nơi ông, cái quyền uy đối với phụ nữ về phía đạo này đã lấn át truyền thống mẫu hệ bên phái Bà La Môn cùng thời. Như đã nói, nếu nhận Chế Bồng Nga theo Hồi Giáo – không rõ ông có xưng là sultan hay không, nếu nhận điều đó thì ta hiểu được sự lạc loài của Chế Bồng Nga trong lịch sử Chàm. Trong thời gian uy danh lên đến 30 năm có hơn mà ông không xây tháp, làm bia cho mình bởi vì không thuộc truyền thống đó. Rốt lại lúc chết đi, ông chỉ được hưởng một đền thờ, có thể là do La Ngai dựng nên, rồi trải qua thay đổi của những người cầm đầu, chỉ còn những người dân quanh vùng nhớ đến, săn sóc mồ mả, đền đài, năm năm làm lễ tưởng niệm mà giữ lại một thói tục lưu truyền về tính cách con người ông. Cũng có thể giải thích lí do tại sao kinh đô Vijaya của ông thì nằm ở Bình Định mà đền thờ ông lại ở Ninh Thuận: Chỉ vì nơi này đã có dấu vết Hồi Giáo từ nhiều thế kỉ trước trong khi Bình Định tràn ngập tháp Bà La Môn. Làm người Hồi Giáo, Chế Bồng Nga có thể hưởng mối lợi về thương mại trên biển Đông và xa hơn, riêng trong xứ, là sản phẩm gốm Gò Sành cao cấp đương thời. Mối quan tâm về thương mại cũng được chứng tỏ trong việc ông đánh dẹp cướp biển mà báo cáo với nhà Minh để gây uy thế chống đánh Đại Việt.
Lại có thể thấy một nguồn lợi khác đem thịnh vượng đến cho xứ Chiêm Thành nhân cuộc cải giáo này. Thầy dòng Ý Odoric de Pordenone nghe ngóng đất Chàm trong khoảng thế kỉ XIV, nhận xét rằng “tựa như người ta không thấy gì trên biển ngoài cá cả.” Nhà du hành Ả Rập Ibn Batutah đến vùng Panran không gặp vị thái tử cai quản ở đấy nhưng tiếp xúc được với công chúa Urdurgia, cũng nói “dường như tất cả các loài cá đều tụ tập ở đây.” Và người lập Bình nam đồ cho Bùi Thế Đạt năm 1774, vẽ tháp Phố Hài (Phan Thiết) như cái tháp chùa 9 từng, có 3 con cá ngoài biển quay đầu vào đất liền với ghi chú: “Mỗi năm vào ngày tháng 5, bọn cá quay đầu chầu về tháp.” Trên vùng này dân Việt đến về sau vẫn tiếp tục hưởng nguồn lợi dồi dào đó và không quên kế tục luôn cả việc thờ cúng, chỉ thay đổi theo cách thức của tập đoàn mình mà thôi.
Trên vùng biển đầy cá đó tất nhiên người dân mọi lúc đều dong buồm ra đánh bắt, tuy nhiên có những điều kiện đã thúc đẩy nghề nghiệp vụt tăng tiến hơn, ví dụ như lúc một bộ phận dân Chàm đi theo Hồi Giáo. Bình thường về trước, theo tục lệ Bà La Môn, họ đã cử ăn thịt bò, đến khi theo Hồi Giáo họ lại cử ăn thịt heo. Có một nguồn chất thịt nằm trong thân các con giông sống trên các bãi cát dọc biển mà ta đã nhắc đến với Ngoạ Triều xưa, nguồn thịt đó cũng bị người Hồi Giáo chê khinh, không hiểu vì sao. Dấu vết còn thấy trong lời tục bây giờ. Các bà bóng ngày nay cũng không ăn thịt heo và thịt giông. Như thế là với Hồi Giáo xuất hiện, người dân Chàm bị hạn chế thêm về nguồn thực phẩm. Họ phải hướng thêm nhiều về phía biển, ra khơi đánh bắt. Không rõ tục thờ cá Ông bắt đầu từ khi nào nhưng Trịnh Hoài Đức thấy rõ là tục đó chỉ thịnh hành từ sông Gianh đến Hà Tiên chứng tỏ những chuyến dồn dập ra đầu sóng ngọn gió của người Chàm đã tạo dựng và nuôi dưỡng truyền thống đã kể.
Sự cường thịnh đó dẫn tới việc quậy phá các vùng phía nam Đại Việt với ý muốn đòi lại đất cũ. Tất nhiên Trần không chịu nên có cuộc thân chinh của Duệ Tông. Lòng hăng hái thì còn nhưng khả năng đã sa sút nên dù chuẩn bị đến trên 3 năm (1373-1376) Duệ Tông vẫn thất trạn, kéo theo cái chết của đại tướng, hành khiển, còn thân vương bị bắt, lần đầu có người họ Trần đánh ngược về Đại Việt. Theo đà thắng trận, quân Chiêm tràn ra đe dọa, cướp phá Thăng Long (1377, 1378, 1383, 1390) sau những lúc bị chận ở Thanh Hoá (1380, 1382, 1389). Rốt lại cái chết của Chế Bồng Nga vì bội phản cũng chỉ là sự tình cờ, tuy giải toả được mối lo trước mắt của vua tôi nhà Trần nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm trên chính trường Đại Việt, nhất là ở phần phía nam đất nước.
Thế suy nhược của Trần và thế đang lên mỏng manh của Hồ khiến nổi lên trong lịch sử những nhân vật bên-lề mà giá vào lúc khác đã chìm khuất vào trong thời gian. Hồ bắt được tướng Chiêm Bố Đông (1396), cho mang tên mới Kim Trung Liệt bao hàm ý nghĩa tôn trọng và giữ nguồn gốc (“kim” là phương tây của bát quái,) cho giữ thành Đa Bang trọng yếu với sáng kiến phòng thủ chiến lược “đánh chận từ xa”, xa lạ với sự rụt rè trong tình thế bất an của tập đoàn mới. Năm 1398 lại có tướng Chiêm đầu hàng được cho họ Đinh, trông giữ biên giới phía nam. Lại có những nhân vật “phản bội” xoay chiều theo tình thế mà vẫn không thoát khỏi vai trò nạn nhân. Duệ Tông thất trận, sử chỉ ghi một thân vương bị bắt là Ngự Câu Vương Trần Húc nhưng có lẽ là đồng thời một loạt người về sau mới được nhắc tới: thân vương Nguyên Diệu theo sát Chế Bồng Nga; Trần Nguyên Đĩnh, Trần Tôn bị bắt, tự tử; Trần/Nguyễn Khang chạy qua Trung Hoa cầu cứu. Trần Húc là con cưng của Nghệ Tông, dấu hiệu trong tước phong “Con-ngựa-non-của-vua,” lấy vợ được cha đi rước dâu khiến sử quan chê “trái lễ,” được Chiêm gả con gái (chiến thuật muôn đời của kẻ thắng), dẫn quân ra Nghệ An, “tiếm xưng vị hiệu” (Đế… gì?), cũng lôi cuốn được nhiều người. Thế rồi vai trò trôi nổi của kẻ hàng thần cũng khiến ông chán nản, nghe chiêu dụ tìm về lại với Trần, bị giết (1382) chấm dứt cuộc đời không may mắn. Trần Nguyên Diệu cũng không hơn gì: Chặt đầu Chế Bồng Nga tưởng là có vật dâng công chuộc tội, rốt lại cũng bị giết. Phía Chàm thì con Chế Bồng Nga, Chế Sơn Nô, năm 1390 đầu hàng, đến 1404 lại móc nối để về Nam, bị giết theo tướng Đỗ Tùng thất thế của Hồ. Vấn đề đáng chú ý là tình hình xoay đổi ở lớp người trên lại làm đà cho những biến động dấy lên từ tầng lớp dân chúng ẩn khuất. Ngự Câu Vương ra Nghệ An “chiêu dụ dân chúng, nhiều người theo lệnh.” Dân Tân Bình, Thuận Hoá theo đà lấn ra của quân Chiêm, tụ tập cướp của, bắt người Nghệ An, châu Diễn.
Trước tình thế đó, dân chúng phải tự lo lấy thân, nhìn gió chiều nào hướng theo chiều ấy khiến sử quan miệt thị “dân Nghệ An ăn ở hai lòng,” còn Tân Bình, Thuận Hoá thì phần nhiều “làm phản” theo Chiêm Thành. Người địa phương đánh nhau, quan lại trung ương đứng xa mà ngó, thế là các lãnh tụ thiểu số nổi lên đi vào dòng chính của lịch sử. Không thể đòi hỏi sử quan có kiến thức về nhân chủng, dân tộc học như bây giờ nên ta chỉ biết các lãnh tụ kia qua các chỉ danh chung chung “thổ tù,” “thổ hào” với các tên họ Việt hoàn toàn: Đặng Tất, Chu Bỉnh Khuê, Nguyễn Rỗ…hay mang dấu vết lai hiếm hoi còn sót: Phan/”phiên” Mãnh, Phạm/Kham/Cầm (Thế) Căng (rõ là gốc Thái.) Phan Mãnh được cho trông coi quân trung ương đóng ở địa phương, đeo vân phù vàng, tưởng có thể thừa thắng xông tới bàn chuyện triều đình nên bị giết thảm thương (1391). Thế Căng còn bám được lâu dài để vướng vào những tranh chấp ở địa phương Tân Bình Thuận Hoá lúc quân Minh sang, hàng Trương Phụ làm tri phủ Tân Bình rồi bị Đặng Tất giết (1408). Đến thời điểm này thì nên kể thêm Lộ Văn Luật, cha con Phan Liêu, cùng thân tộc Phan Kiệt, những tên người ở thế yếu nhưng có thể sắp xếp tương đương với nhóm Mường Thái Lam Sơn nổi bật trong lịch sử về sau. Các vùng Trại phía nam do đó càng tham gia mạnh hơn vào tình hình biến động mời gọi quân Minh sang.
Minh thuộc và phản ứng khác ở vùng Trại: nhóm Mường Thái Lam Sơn
Họ Hồ chỉ chính thức là một triều đại có bảy năm (1400-1407) tuy rằng Hồ Quý Li đã chen vào chính quyền từ 30 năm trước và để lại dấu ấn không nhỏ trên đất nước Đại Việt. Các sử gia mang ý niệm chính thống cho rằng việc cướp quyền Trần là lí do khiến phát sinh nội loạn và sự can thiệp từ bên ngoài. Còn với ngày nay thì lại có lời phê phán, cho rằng sự thất trận nhanh chóng còn do bởi sai lầm về quan niệm điều hành chiến tranh: Thay vì sử dụng du kích chiến đúng với tầm mức nước nhỏ lại mở những trận đối đầu công khai để bị thất bại không còn có cơ cứu vãn.
Lại cũng như ở những biến động khác, vấn đề đã phức tạp hơn nơi các đầu óc muốn suy nghĩ giản dị. Quả thật đã có người như Trần Thiêm Bình / Nguyễn Khang, gia nô của quý tộc Trần Nguyên Huy, cùng với các cựu quan chức khác sang Trung Quốc cáo giác để đưa quân Minh vào nước. Lực lượng chinh phục vốn là của vị hoàng đế (Thành Tổ) từng từ xa tận Bắc Kinh tràn ngập Nam Kinh, cướp quyền ông cháu (Huệ Đế) cho nên tự bản thân đã mang sức mạnh quyết định chiến trường. Khi quân đến nơi thì không những quý tộc Trần đầu hàng Minh mà những tập đoàn ít gắn bó với Thăng Long như trường hợp họ Mạc (lưu ý vụ Bàng Hà bị xoá sổ,) cũng kéo nhau phục vụ chủ mới. Điều đó thì cũng bình thường nhưng ta nên chú ý thêm là người cầu viện không phải tôn thất Trần mà là một tên nô, vào thời kì nô đã không còn phải ứng xử như một kẻ thuộc hạ trung thành với chủ mà như một kẻ tìm tư thế độc lập, tuy thấy vẫn phải còn cần chút dựa dẫm. Thiêm Bình từng theo Chiêm Thành không thành công trước khi quay sang Minh. Nghĩa là họ chống Hồ không phải chỉ vì mất quyền lợi mà còn toan tính hướng vào một viễn tượng tươi sáng hơn. Một dấu hiệu tương tự là trường hợp Lê Ngã, nô của Trần Thiên Lại, ở vùng đông bắc nổi dậy chống Minh, xưng hoàng đế, đặt niên hiệu, đúc tiền (1420), đánh giết chủ nhân cũ không phục tòng mình. Và tất nhiên tuỳ vào tầm mức đạt được sau khi xếp hàng phe phía thì người ta lại có phản ứng khác nhau. Họ Mạc vốn chỉ là quan triều cũ thì làm quan triều mới, phục vụ tận tình cũng là bình thường trừ phí bị hà hiếp thái quá, hay bị nghi ngờ như trường hợp Phan Liêu ở Nghệ An, Lộ Văn Luật vùng Thái phía tây bắc Đông Đô. Còn con cháu nhà Trần không thấy được trở lại làm vua thì tự mình kết bè đảng phục hưng triều đại.
Về cách thế điều hành chiến tranh chống Minh thì như đã thấy, sự phê phán chỉ là của người sau, nhất là người thời bây giờ chứng kiến chuyện ưu thế du kích chiến vừa qua. Không ai chê Nguyễn Huệ đánh trận Đống Đa theo cách trực diện hết vì lí do giản dị là ông đã thắng. Tuy nhiên, dù thất bại ta cũng thấy Hồ Quý Li đã tổ chức chiến đấu thật kĩ và đã tạo được một quân lực khá mạnh. Trong trận chiến chống Chế Bồng Nga trước kia, quân Trần đã dùng hoả pháo bắn chết viên tướng kiêu dũng này. Không thể coi đó chỉ là sự may mắn. Về sau, Hồ Nguyên Trừng được sử dụng trong triều Minh như một chuyên viên hoả pháo hẳn là vì ông đã có kiến thức đó từ phía nam, phía biển đưa tới – nơi người Ả Rập “Hồi Hột” mà Hốt Tất Liệt từng đòi chẳng hạn, tuy chúng ta không biết rành rẽ lắm về khả năng đó như thế nào vì không có tài liệu để lại. Những lệnh kiểm tra dân đinh gắt gao, thu lương thực tiền của dự trữ, đóng thuyền lớn chứng tỏ ước mong có “trăm vạn binh” chống phương Bắc tuy không đạt thành nhưng hẳn không chỉ là điều mơ mộng. Lực lượng đó được đem ra thử sức với phương Nam, tuy là nước yếu nhưng toan tính của Hồ Hán Thương muốn nuốt cả Chiêm Thành đến tận biên giới Xiêm La (1403) rõ là ý thức được sức mạnh của mình. Tình hình đã không xảy ra như mong muốn về phía Minh nên cha con họ Hồ phải bị Trương Phụ bắt đi (đầu 1407), rút ngắn cuộc đời muốn là to lớn của nước Đại Ngu.
Lại cũng thấy sử sách nói nhiều đến sự tàn ác của quân Minh mà chứng cớ văn chương tràn trề trong lời Cáo bình Ngô. Tính về thời gian hiện diện thì Minh có mặt mười năm nhưng không trọn vẹn vì phải mất thời gian bình định từ những cuộc nổi dậy nhỏ tới sự kháng cự mang tính chính thống của Giản Định, Trùng Quang và cuộc khởi nghĩa ở Lam Sơn bắt đầu từ 1418. Tuy nhiên vì sức mạnh của một quyền lực lớn cộng với quyết tâm xây dựng thuộc địa mới, những cải cách của quân Minh trên một phần Đại Việt cũ – nhất là ở phần quanh Đông Đô yên ổn hơn, đã để lại ảnh hưởng lâu dài về sau.
Tổ chức cai trị thuộc địa cũng chịu ảnh hưởng của tình hình thực tế nên Tham nghị Giải Tấn của quân Minh đã đề nghị một hình thức bảo hộ, điều khiển trên các quan lại cũ được phục chức hay qua người mới được tuyển lựa. Điều này hợp với ý của một số người đi cầu viện như trường hợp Lê Cảnh Tuân đưa “thư vạn chữ” cho Tham nghị Bùi Bá Kì (từng theo Trần Thiêm Bình) đề nghị yêu cầu Minh phục hồi họ Trần như đã hứa. Tất nhiên chiến thắng tương đối dễ dàng và có vẻ dứt khoát trong lúc đầu khiến vua Minh không bằng lòng nên cứ để tiến hành chính sách chia đăt quạn huyện cai trị như ở đất Trong Quốc. Thế là xảy ra những cuộc thanh trừng ngay từ ti Đô hộ như việc bắt Bùi Bá Kì (10âl. 1407), ra lệnh truy nã Lê Cảnh Tuân, còn ở địa phương thì dưới hình thức được ghi, là những phụ tá thân cận lập công lúc đầu bị Trương Phụ giết vì “kiêu ngạo… ngầm có chí làm phản” như trường hợp Nguyễn Đại, người bắt cha con họ Hồ, được phong tới chức Giao Chỉ Đô chỉ huy sứ nghĩa là chức chưởng nằm ở trung tâm quyền lực thuộc địa. Con cháu họ Trần có Trần Ngỗi xưng Giản Định Đế, nổi dậy ở đất căn bản Thiên Trường (tháng 10âl. 1407) nhưng lúc này lại là chốn ngự trị của Minh, nên phải bỏ chạy vào Nghệ An xa. Thế là những rối loạn dồn vào đây với những cựu thần Trần bao gồm thổ hào cũ/mới quy thuận, chống đối, phù trợ người này người khác, may mắn chết lúc chống Minh thì được sử quan khen tụng, rủi ro tách riêng tự chủ mà thất bại thì trở thành “bạn thần.” Như trường hợp Đặng Tất theo Giản Định với tước Quốc công, bị Giản Định giết (1409) sau khi giúp vua trừ khử Phạm Thế Căng, người đầu Minh rồi xưng vương (1408, ở nam Quảng Bình.) Người con, Đặng Dung, bỏ đi phò tá Trùng Quang, cũng không chống nổi Trương Phụ, rốt lại vua tôi đều bị bắt giết (1413). Thoái trào chống đối đem lại thuận lợi cho quân Minh trong một lúc: Phan Liêu báo cáo tình hình quân Trần cho Trương Phụ tấn công, Lê Cảnh Tuân trốn chui nhủi tưởng người ta quên, mò ra làm quan bị bắt, và người cuối cùng đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi cùng từng chịu chức Tuần kiểm đất Nga Lạc nhỏ nhoi… Vẫn có những điểm rối loạn khác nhưng thay đổi lớn phải đợi từ rừng núi Lam Sơn.
Đánh bắt họ Hồ xong, Trương Phụ thực hiện kiểm tra xứ sở vừa chiếm được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3 129 500 hộ. Không rõ đơn vị hành chính “huyện” được đặt ra vào lúc nào dưới thời Hồ. Số dân đinh 10 triệu trở lên (tính trung bình cho mỗi hộ 3, 4 người) thật quá cao nhưng đây là lần đầu tiên ta có số lượng dân đinh toàn vùng từ Thanh Nghệ trở ra, nằm trọn dưới một quyền bính cho nên có thể hiểu con số chỉ còn 1/3 trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi là bao gồm vùng đồng bằng và lân cận thôi. Từ 1414 mới có kiểm tra, lập sổ bộ vùng Tân Bình, Thuận Hoá (phía nam đã thuộc về Chàm lại.) Các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang chỉ là “châu” đối với Thăng Long, nay được nâng lên làm “phủ” theo cách nhìn hướng về Yên/Bắc Kinh của chính quốc. Thế rồi đến 1417 thì hầu hết được nâng lên thành phủ. Việc cai trị dù sao cũng cần người địa phương nên có các “thổ quan,” được làm chủ một phần ruộng đất cho sinh hoạt, nghĩa là hoặc chiếm lại đất cũ có thể bị hao hụt, hoặc được chia đất mới đối với những kẻ “bon chen… hăng hái” theo thời, như sử quan ghi nhận. Trên họ là những lưu quan của triều đình phương Bắc phái đến, được cấp lính cày cấy, nghĩa là tự túc, đỡ gánh nặng chi trả cho nhà nước nhưng cũng là đầu mối gây tham nhũng, hạch xách dân chúng, tiếng tăm vang đến tận tai hoàng đế Minh. Sau mấy trăm năm, đây là lần đầu Trung Hoa có lại một thuộc địa nhiệt đới nên tận dụng khai thác không phải qua trung gian mua bán, đổi chác: Bắt người mò ngọc trai, tìm vật lạ, hương liệu, mở thêm nguồn lợi bằng cách trồng trọt hồ tiêu, áp dụng chính sách có sẵn ở chính quốc về độc quyền muối, thu thuế ruộng đất, tằm tơ… Trung châu sông Hồng sản xuất lúa gạo nhiều so với các vùng Nam Trung Quốc khiến Trương Phụ cho thuyền buôn chở về Bắc bán, ngay lúc vẫn còn những bất ổn vì con cháu họ Trần (1413).
Ưu thế học vấn Hoa hoá của Giao Chỉ được Minh biết từ trước, lúc hạch xách Hồ Quý Li, đến nay họ cho mở rộng chính sách, lập học hiệu, xây Văn miếu (1414), ban cấp sách cho các nhà học (1419), bắt cống sinh viên nho học (1417), đồng thời lại tận thu “các loại sách ghi chép về các sự tích xưa nay của nước ta” với ý định huỷ diệt văn hoá địa phương theo những lệnh không che giấu nhưng rõ là cũng có ngầm ý tìm kiến thức theo thói quen của các triều đại. Những kiến thức đó hoặc may mắn được lưu lại khá toàn vẹn như Đại Việt sử lược hoăc rải rác trong sáng tác của người Minh như An Nam chí, thường dẫn không những các sách về sau không còn mà cả những tài liệu do các địa phương giao nạp nữa.
Thế có nghĩa là nhà Minh đã đem lại một sự đảo lộn lớn lao trên vùng đất của các vương triều độc lập cai trị trên mấy trăm năm, đã tạo dựng được một sự riêng biệt không thể xoá bỏ mà không gây phản ứng. Bắc Kinh tuy ở xa tít mù nhưng quyền lực người cai trị đã đến tận nhà người dân của cả các tập đoàn thiểu số. Sự đẩy mạnh đà Hán hoá qua kinh sách, học hiệu đáng lẽ phải là một sự nối kết, lại trở thành một nền tảng đưa sự phản đối trên tầm mức cao hơn. Quan lại hà khắc đã là chuyện bình thường mà ý định vơ vét một khu vực mới của chính từ trung ương cũng đem lại cơ hội cho người cầm quyền lớn nhỏ ở địa phương mạnh tay hơn. Loạn tứ phương nổi lên từ ngay cả những người chịu đựng hợp tác, như chính ông Lê Lợi, tuần kiểm Nga Lạc một thời, thú nhạn: “Ta xưa kia gặp buổi loạn lạc… vốn chỉ mong giữ được mạng mình thôi. (Thế mà tuy) Ta đem hết của cải để phụng thờ chúng mong khỏi tai hoạ, nhưng tim đen chúng muốn hại Ta vẫn không bớt chút nào…”
Đúng vậy, chuyện từ “trong làng trong xóm” làm nảy sinh một đám cháy nhỏ nơi rừng núi Lam Sơn đã trở thành một đám cháy lớn thiêu rụi mộng ước chiếm lĩnh thuộc địa Giao Chỉ của Minh Thành Tổ. Nhìn lại bản văn thề Lũng Nhai với những người tham dự (tháng 2âl. 1416), ta thấy bước đầu của tập họp Lam Sơn. Họ gồm phần lớn là người họ Lê, không hẳn chỉ là thân tộc mà còn là lân bang, với cả dân lưu vong. Họ Lê thì như ta thấy, có vẻ là một họ “sang” của vùng Thanh Hoá để người ta bắt chước theo. Nhưng những lời mở đầu của Lam Sơn thực lục như một phả hệ cho thấy tính chất di chuyển theo nơi khai thác của các ông tổ họ Lê. Chức vụ Phụ đạo và tính chất cư dân trong vùng cho tới gần đây chứng minh họ là nhưng người Mường đương thời. Phụ đạo Khả Lam / Lam Sơn là Mường thì Nguyễn Thận, phụ đạo Mục Sơn (“đạo Mục”) cũng là Mường, như Lê Lai, phụ đạo Dựng Tú, đó là những ngưòi mang dấu vết chủng tộc tại chỗ rõ rệt nhất. Trong hội thề cũng có người gốc Thái (Phạm Võ) – họ Phạm vốn là chuyển âm của Khằm/Cầm như chứng tỏ ở bia công thần Khằm Ban chủ Mường Ca Da (Hồi Xuân, Quan Hoá) có tên con đã là Phạm Ngọc Chúc. Họ Trịnh có nguyên gốc từ tên địa điểm trung tâm của một tập họp Thái “chiềng”, chứng cớ chuyển tiếp có khá nhiều trong Toàn thư. Ngay trong sự phân biệt hai họ này ta cũng thấy họ Trịnh có vẻ “cũ/Việt” hơn, họ Phạm có vẻ “mới/Lào” hơn. Tâp họp Lam Sơn mang tính hỗn hợp Mường Thái chứng tỏ trong liên hệ hôn nhân: mẹ Lê Lợi họ Trịnh, vợ ông cũng họ Trịnh, và họ Phạm. Ngày sau, xa cả sau khi Lê đổ, Phạm Đình Hổ còn biết trong lễ tế ở Lam Kinh có xướng bằng tiếng Thái chứng tỏ người ta đã không quên tổ.
Tuy nhiên nhóm hội thề Lũng Nhai không chỉ có người địa phương mà còn có tập nhóm thiểu số phía bắc như Lưu Nhân Chú, có những người văn học đồng bằng như Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi. Tính chất “kinh thượng” hỗn hợp đó biểu lộ trong tên nước lửng lơ: Hà Nam / A Nam thấy ngay là An Nam! Những nhân vật này có thể chỉ là những kẻ lánh nạn buổi đầu nhưng là yếu tố nội tại để công cuộc chống Minh có cơ sở lan rộng mà không phải bỡ ngỡ. Họ đem lại chữ Hán cho những buổi hội thề rừng núi thêm phần trang trọng mà cũng lấp bằng sự khác biệt ngôn ngữ. Họ ghi chữ nôm, củng cố sự hiểu biết bằng tiếng Việt cho một tập đoàn đa chủng có một bộ phận đã thiên về tiếng Việt (Mường), một bộ phận khác còn lơ lửng, như trường hợp Trịnh Khả “biết tiếng Lào.” Chiến tranh giúp những người này thoát ra khỏi khuynh hướng lôi kéo của hệ thống Thái có dấu hiệu tiến qua đông khá mạnh, rõ rệt trong trường hợp Lê Lợi lúc đầu có liên hệ kinh tế với Trịnh Đồ, liên hệ tôn giáo với “nhà sư áo trắng,” liên hệ quân sự với việc cầu viện chống đỡ quân Minh.
Tất nhiên biến động buổi đầu không có gì là ghê gớm lắm. Cứ tin như lời thú nhận thành thật của Lê Lợi thì việc ông uyển chuyển phục vụ theo tình thế cấp thời là điều tự nhiên: Có quân Trùng Quang trong vùng thì ông là tướng thuộc vệ Kim Ngô của ông vua này, Minh tới thì nhân tiện đang ở dưới đồng, chuyển làm tuần kiểm vùng Nga Lạc để yên thân, cần thì cũng không nề hà gì chuyện đút lót. Sự nhẫn nhịn lúc nào cũng có giới hạn cho đến khi động đến vấn đề sống còn, trước nhất là đối với người hàng xóm. Sử chính thức cho thấy nhóm Lê Lợi phải xung đột với “thằng Ái,” phụ đạo sách Nguyệt Ấn – gọi thằng không có ý gì khinh miệt cả, chỉ là vì người kia không/chưa có họ mà thôi. Bằng cớ khác trực tiếp hơn, là về chủ đích của Hội thề 19 người: “Nếu có bè đảng nào vì muốn xâm tiếm, tỏ vẻ xem chừng sắp vượt cửa vào để làm hại… thì hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương,” đó là tri huyẹn Lương Giang Đỗ Phủ, tranh giành đất đai với Lê Lợi mà lại là cấp trên của ông, thêm quan lại bên trên nữa phụ hoạ. Việc tranh giành đất đai còn thấy sau này, khi thành công (1428), trong tranh chấp mới, hay được thấy ra khi nhắc lại các thù hằn thời còn lao đao cũ.
Rừng núi cản trở một phần bước chân truy bức của quân Minh tuy lúc đầu quân nổi dậy cũng chưa thoát khỏi ý thức co rút trong vùng đất, người quen thuộc. Sự phối hợp tính dũng cảm của quân rừng núi và kiến thức văn minh đồng bằng đưa quân Lam Sơn vượt qua nhiều tình huống khó khăn: kiểu “đổi áo cứu chúa” của Lê Lai, mượn thế viện trợ bên ngoài (Trịnh Khả “biết tiếng Lào” vận động trợ giúp từ phía tây), ẩn nhẫn đầu hàng chờ cơ hội… Điểm giải thoát đột biến là khi Nguyễn Chích, người “ngoài nhóm” đã nghĩ ra việc đề nghị đưa quân trở về vùng mình quen biết, xa khu vực Thanh Hoá thường dễ bị vây khổn (Chí Linh 1418, Quan Da 1422), sau khi đi sâu về phía bắc nhờ cậy quân Lào mà bị phản bội (1421), chịu hoà hoãn mà vẫn phải trở về cái túi Lam Sơn trong tay quân địch. Từ suy tính bứt phá đó quân tiến về phía nam (Nghệ An 1424), càng lúc càng xa, đến gần Hà Tĩnh (1424) tiếp giáp đồng bằng, lần đầu dương danh nghĩa toàn quốc của cuộc nổi dậy. Trên đường tiến quân, thủ lĩnh Thái Lào địa phương bị dẹp bỏ (Cầm Bành, châu Trà Lân), buộc đầu hàng liên kết (Cầm Quý, châu Ngọc Ma, mang tham vọng chia quyền qua Trần Cảo được dung dưỡng trong tay). Thế quân càng lớn thì các phụ đạo Thái Lào ở biên giới kể cả những người xa về phía bắc, càng quy phục nhiều để cầu an thân, cho đến khi không chịu đựng được phải chống đối về sau: phụ đạo Quỳ Châu Cầm Lạn, phụ đạo Mường Mộc (Mọc Châu) Xa Khả Tham, phụ đạo Lai Châu Đèo Cát Hãn.
Nhưng quân tiến xuống đồng bằng thì gặp trở ngại thấy rõ của một tình thế tác chiến mới: họ không đủ lực công phá các thành trì địch. Một sáng kiến tiếp theo để lấy thêm nhân lực là tiến quân về phía Tân Bình, Thuận Hoá sử dụng số dân được họ Hồ đẩy vào đó, đoàn ngũ hoá làm quân biên cương chống Chiêm nay trở thành lực lượng chống Minh. Thế quân Lam Sơn càng mạnh thì các nơi khác có đà nổi dậy làm rối quân Minh thêm. Không phá được thì vây thành, tuyệt đường lương thực, chận quân tiếp viện. Vương Thông dẫn quân chính quốc tiếp viện (1426) lại bị vây trong thành Đông Quan, cho thấy tình thế tuyệt vọng như trong thư gửi vua Minh: “Quân phải được như số đi đánh lúc đầu, phải được sáu, bảy viên đại tướng như Trương Phụ mới có thể đánh được, mà đánh cũng không thể giữ được.” Đợt tiếp viện cuối cùng do Liễu Thăng đi đường Lạng Sơn, Mộc Thạnh theo đường Vân Nam, bị thất bại. Liễu Thăng bị giết (tháng 9âl. 1427), quân Mộc Thạnh tự tan. Vương Thông cuối cùng chiụ cầu hoà, tuyên thệ ngày 22-11 âl.Đinh mùi (1427) rút quân về nước ngày 12-12.
Sau năm thế kỉ độc lập, cựu thuộc địa An Nam / Giao Chỉ có những người cầm đầu là các lãnh chúa địa phương nhỏ tranh giành nhau để thủ lãnh Mường họ Đinh làm việc “đại nhất thống,” lại không đủ sức gìn giữ, để quyền bính lọt vào tay các nhóm lưu vong trôi nổi. Đến nay quyền làm chủ lại thấy trở về một tập nhóm bản thổ, tất nhiên sẽ cai trị trên một đất nước văn minh hơn, lớn rộng hơn. Nhưng cũng bởi nguồn gốc đó mà phát sinh nhiều vấn đề dẫn đến sự tan rã mới, trên một đất nước lại cũng lớn rộng hơn.
Xin được cám ơn ông Tạ Chí Đại Trường
Bản sơ thảo này là một cố gắng rất đáng nễ. Đặc biệt là chương sách này. Trước giờ, nước Việt Nam hiện đại không có một một bản sử để người lớn đọc và suy nghĩ.
Xin gởi đến tác giả Tạ Chí Đại Trường sự ngưỡng mộ từ một người đọc âm thầm luôn thích thú theo dõi các tác phẩm của ông.