Trang chính » Biên Khảo, Chống Kỳ Thị & Bạo Lực / Anti Discrimination & Hate, Chuyên Đề, Phỏng vấn Email bài này

Gọi tên tôi

♦ Chuyển ngữ: 0 bình luận ♦ 16.08.2023

(Phạm Huy Lam chuyển ngữ từ bài phỏng vấn “Say My Name” của Phuong-Cac Nguyen đăng lần đầu trên tạp chí Red Canary, ngày 15 tháng Tư, 2021.)

 

 

Có một điều mãi đến gần đây tôi vẫn chưa hiểu hết, ấy là bản sắc của mình luôn bất định. Hồi lớn lên ở Nam California, tôi không thấy mình khác biệt mấy so với bạn bè cùng thế hệ Gen X. Tôi lạc lối, luôn luôn bực bội, bồn chồn – không khác với những gì tôi thấy nơi bạn bè và cả trong văn hóa đại chúng – đặc biệt trên đài truyền hình MTV và trong phim. Nhưng rồi, khi tới tuổi 20 vào đầu thập niên 2000, tôi có thêm một khía cạnh mới về bản sắc: tôi là người Á châu, và tôi thấy mình ngon vì là người Á châu. Ngon vì những món hàng mới nhất mang vóc dáng tương lai đều đến từ Châu Á. Ngon vì mọi người đều thích sushi, ramen, phở, cơm chiên, thịt nướng Đại Hàn, pad Thái, rượu sake, bia Asahi, karaoke, xe Honda, nghệ sĩ Takashi Murakami, phim Ngọa Hổ Tàng Long, vận động viên trượt băng đoạt huy chương Olympic Michelle Kwan.

Ấy vậy mà khi bắt đầu lang thang ra thế giới rộng lớn hơn, tôi đột nhiên thấy việc mình là người Á châu cũng không còn ngon nữa. Chẳng hạn như khi tôi đến thăm thành phố New York và bị gọi là “konnichiwa” dù không phải là người Nhật; hoặc khi đến Rome, thấy những người đàn ông kéo khóe mắt lên khi tôi đi ngang qua họ. Khi ấy, mọi chuyện đổi thay: tôi vỡ lẽ mình đã, và sẽ luôn, là kẻ ngoại cuộc. Khi tôi dọn qua Brazil, một cách kỳ lạ, bản sắc ấy biến thành một bản sắc Mỹ không lẫn vào đâu được. Tôi muốn sửa lưng bất cứ ai nói rằng họ chẳng đoán nổi tôi đến từ Hoa Kỳ vì cặp mắt tôi – với họ tôi sẽ mãi là một “chinesa” (người Tàu). Trớ trêu thay, tôi trở thành một người cổ xúy mạnh mẽ nền văn hóa và con người Brazil, đến độ bạn bè tôi ở đó cứ đùa rằng tôi còn Brazil hơn họ. Có lẽ cách tôi tự biện giải để thoát khỏi cuộc khủng hoảng bản sắc là chọn một bản sắc hoàn toàn mới, thay vì bị buộc phải chọn giữa những bản sắc mà mọi người ở quê nhà phóng chiếu lên tôi.

Có lẽ đó là quyền năng siêu nhiên của người Mỹ gốc Á: Khác mọi người da màu ở Hoa Kỳ, chúng tôi có khả năng đặc biệt là đặt mình vào số phận của kẻ khác. Lịch sử của chúng tôi ở Hoa Kỳ buộc chúng tôi có lòng trắc ẩn với những bất công lịch sử mà người Da Đen phải gánh chịu. Chúng tôi đồng cảm với người đến từ Nam Mỹ, vì người ta yêu thích thực phẩm của chúng tôi nhưng lại muốn chúng tôi về nước, bất kể chúng tôi sinh ra tại đây. Chúng tôi hiểu cảm xúc của người Hồi giáo, vì bất kể chúng tôi là người Hàn, Cambodia hay Việt Nam, nhiều người Mỹ vẫn xem chúng tôi như là một kẻ thù đến từ Trung Quốc. Và chúng tôi cũng cảm thấy mình trắng, bởi vì chúng tôi thích thú với đồ ăn McDonald’s, văn hóa trượt băng hoặc giày Reeboks sau khi cha mẹ chúng tôi đến Hoa Kỳ với tư cách di dân hay tị nạn và nuôi lớn chúng tôi ở đất nước này.

Tình hình hiện tại là tội ác thù ghét nhằm vào người Á châu gia tăng, với nhiều báo cáo cho thấy tăng gần 150 phần trăm trong năm 2020 (giữa lúc tỷ lệ tội ác thù ghét nói chung giảm 7%) theo Trung Tâm Nghiên Cứu Về Thù Ghét Và Chủ Nghĩa Cực Đoan tại Đại Học Tiểu Bang California, San Bernardino. Tuy nhiên, ngay lúc này chúng tôi cảm nhận mình rõ ràng là người Á châu. Chúng tôi cảm nhận điều đó khi cựu Tổng Thống Trump gọi Covid-19 là “kung flu” [một trò chơi chữ giữa võ Tàu “kung fu” và bệnh cúm “flu”]. Chúng tôi cảm nhận điều đó khi đi chợ và bị yêu cầu hãy về nước hoặc bị gọi là cộng sản. Chúng tôi cảm nhận điều đó khi thấy người ta hành hung người cao niên của chúng tôi ngoài đường. Chúng tôi cảm nhận điều đó và rồi đi mua bình xịt hơi cay, hơi ngạt, súng, súng điện. Và những cảm nhận ấy tiếp tục gia tăng. Vụ xả súng hàng loạt ở Atlanta có lẽ là ví dụ sống động và bi thảm nhất về lòng căm ghét đang dâng lên này, nhưng nói theo kiểu châm ngôn thì nó cũng là giọt nước sau cùng làm tràn ly. Giờ đây, người Mỹ gốc Á đang đoàn kết trên môt quy mô tôi chưa từng thấy trong 43 năm đời mình; không chỉ để lên tiếng, mà còn để đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc mà mỗi người trong chúng tôi đã âm thầm chịu đựng suốt nhiều thập niên.

Trong bối cảnh này, tôi cảm thấy đây là một dịp tốt để tụ họp mẹ tôi và các cô con gái trưởng thành của bà – các em gái tôi – trò chuyện về những kinh nghiệm của chúng tôi xuyên qua các thế hệ và nền văn hóa. Dù các em gái tôi và tôi đều ra đời ở Mỹ, mỗi người trong chúng tôi đều chứa đựng hàng loạt nền văn hóa được tạo ra và tích hợp lại nhờ pha trộn những ảnh hưởng quanh mình. Tôi là con gái lớn; em gái tôi Tiên, là nhà báo và nhà văn, 39 tuổi; Chloe, nhà tiếp thị kỹ thuật số, 35 tuổi; và DC, làm việc trong ngành tác động xã hội, 31 tuổi. Mẹ của chúng tôi, bà Tà Cúc, 67 tuổi, là nhà văn.

Đây là những gì chúng tôi đã nói với nhau tại thời điểm bước ngoặt này.

* * *

Phượng Các: Má, khi má đặt chân đến miền Trung Pennsylvania vào năm 1975 là một người tị nạn từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam, ấn tượng đầu tiên của má là gì?

Tà Cúc: Má lúc ấy 22 tuổi. Má được đưa vào một trại tị nạn ở Fort Indiantown Gap, thành phố Lebanon, Pennsylvania. Má đến đúng lúc mùa thu vừa lộ diện trên những tán lá và cây cao. Cảm nghĩ của má là nơi này thật bình yên so với nơi mà mình vừa rời khỏi. Ngồi trên máy bay trên đường đến đây, má tự nhủ, mình đang tái sinh vào một tử cung mà sẽ mang đến cho mình cuộc đời mới.

Hồi còn trẻ, má ao ước trở thành bác sĩ quân y, do đó má hay ra thăm những người bạn trong quân đội Miền Nam Việt Nam ở tiền tuyến để xem mình có thể theo nghiệp ấy được không. Nhờ đó, má đã chứng kiến ​​chiến tranh với sự tàn phá kinh hoàng của nó, cho nên sự tương phản ở Mỹ rất rõ rệt.

Người Mỹ tử tế và chu đáo. Má nhớ có một ông làm việc tại phòng ăn của trại nhận thấy mỗi khi họ làm món cá cho bữa tối, má không lấy miếng nào. Một hôm, ông ấy gắp cho má một miếng. Anh ba của má, vốn thông thạo tiếng Anh, giải thích với ông ấy rằng má bị dị ứng cá. Kể từ đó, mỗi lần cá xuất hiện trên thực đơn hàng tuần, ông ấy dành riêng cho má một miếng gà rán.

Rời trại, má dọn đến San Diego, Cali, nơi gia đình mình được một nhà thờ Thiên Chúa giáo bảo trợ.

Một mẩu báo cắt cho thấy tàu Sgt. Miller rời Miền Nam Việt Nam năm 1975.

Một mẩu báo cắt cho thấy tàu Sgt. Miller rời Miền Nam Việt Nam năm 1975.
Gia đình bà Nguyễn Tà Cúc ở trên boong tàu này.
Ảnh của Phan Tấn Vinh; mẩu báo cắt do bà Nguyễn Tà Cúc cung cấp

 

Phượng Các: Những gì má trải qua trong những ngày đầu tị nạn có giống những gì má nghĩ về nước Mỹ hồi còn ở Miền Nam Việt Nam hay không?

Tà Cúc: Câu chuyện về người đàn ông trong trại đúng y như những gì má tưởng tượng về nước Mỹ hồi còn ở Việt Nam: một đất nước văn minh với những con người rộng lượng và một di sản văn chương tiên phong. Người Miền Nam Việt Nam đã dịch rất nhiều tiểu thuyết của các nhà văn Mỹ. Sau này, khi má kết hôn với ba của các con và trở lại Pennsylvania vào năm 1976, lần này định cư tại đó, má tìm thấy lại lòng tử tế ấy ở Đại Học Penn State.

Dĩ nhiên, cũng như bất cứ một quốc gia nào khác, Hoa Kỳ có những vấn đề. Một trong số đó là nạn kỳ thị chủng tộc. Má gặp vụ phân biệt chủng tộc đầu tiên trong đời mình sau đó, rồi gặp lại nữa. Nhưng cho đến khi đó, do má chỉ quanh quẩn trong khu vực xung quanh Đại Học Penn State và trong khuôn viên trường, nên không trải nghiệm nhiều nạn thù ghét. Mãi sau này má mới được tiếp xúc với một bức tranh phức tạp hơn về đất nước này.

Phượng Các: Chuyện gì đã xảy ra và phá vỡ hình ảnh ấy?

Tà Cúc: Hồi nhà mình còn ở Texas, má đã nổi điên lên vào một hôm con từ trường mẫu giáo về nhà với nửa khuôn mặt đầy vết cào, dính máu dính cát. Con nói con bị bạn bắt nạt, và má hỏi tại sao con không nói với cô giáo. Con nói với má là con đã nói với cô giáo. Lập tức má đưa con trở lại trường và bắt đầu la mắng hiệu trưởng và mọi người khác. Câu đầu tiên má thét lên trong cơn giận là, “Quý vị không nghĩ là tôi biết nói tiếng Anh, phải không?!”

Thông thường ngôn ngữ là rào cản đầu tiên đối với một người nước ngoài khi đến bất cứ đất nước nào. Mặt khác, ngôn ngữ là vũ khí ưa thích của những kẻ kỳ thị. Người ta không có tiếng nói nếu họ không nói được ngôn ngữ ở đó, vì họ không thể khiếu nại với một cơ quan hoặc truyền thông địa phương. Còn lý do nào khác để chúng ta giải thích việc làm ngơ thương tích của một đứa bé Á châu 5 tuổi thấy được rành rành bằng mắt thường? Ngay cả việc lau mặt cho con họ cũng không bận tâm, cứ như họ muốn gửi cho má một tín hiệu trâng tráo rằng má cũng chỉ bó tay thôi nếu không có khả năng lên tiếng.

Phượng Các: Còn vụ nào khác?

Tà Cúc: Khoảng năm 2002, một ông ăn mặc bảnh bao đi theo má khi má ra khỏi xe trong bãi đậu tại một thương xá ở Costa Mesa, California. Ông ấy đậu bên xe cạnh má. Khi bước lên ngang với má, ông ấy nói: “Hẳn là một con khỉ đã dạy cho bà biết đi và bây giờ biết lái xe. Bà trông giống như một con khỉ, một con khỉ, một con khỉ…”

Má chờ cho đến khi mình bước vào trong thương xá và cảm thấy an toàn rồi mới tuôn ra cả một tràng dài mạt sát ông ta. Cũng vậy, điều đầu tiên má nói là: “Ông không ngờ tôi nói được tiếng Anh phải không? Tôi không những nói mà còn chửi được bằng tiếng Anh nữa.”

Vào năm 2008, má trở lại Miền Trung Pennsylvania để hoàn tất đại học. Dọc đường đi bộ đến một siêu thị, hai thanh niên đi theo và châm chọc má với những lời lẽ kỳ thị. Lần nữa, má đi đến tận trước cửa hàng mới trả lời họ. Lần này má cũng nói: “Mấy anh không nghĩ rằng tôi nói được tiếng Anh, phải không?”

Nhìn lại, má đã thực sự bị sốc và giận dữ vào lần đầu tiên chuyện này xảy ra, vì hình ảnh bác ái của đất nước này đã tan tành đối với má theo một kiểu rất choáng váng. Sau này, má quyết tâm cho những kẻ ấy biết rằng họ không thể làm nhục được ai – kể cả người Á châu – mà không bị đáp trả. Má cũng cảm thấy rất rõ mình có lẽ chẳng phải nạn nhân đầu tiên mà cũng chẳng phải nạn nhân cuối cùng, do đó, má muốn đứng lên không những cho riêng mình mà còn cho những người khác có lẽ không đủ sức kháng cự, vì rào cản ngôn ngữ, như có thể con đã nhận thấy trong phản ứng lặp đi lạp lại một cách vô thức của má trong mỗi lần.

Phượng Các: Má nhìn thấy gì về nạn kỳ thị người gốc Á ở nước này hiện nay, tức 46 năm sau? So với hồi má mới tới đây, mọi chuyện đã thay đổi như thế nào trên vấn đề đó?

Tà Cúc: Ấn tượng của má về đất nước này không thay đổi nhiều, vì má đã chứng kiến ​​nỗ lực không ngơi nghỉ của chúng ta nhằm giải quyết vấn đề bất bình đẳng và kỳ thị chủng tộc, dù đôi lúc vẫn chậm chạp. Hãy nhìn vào lịch sử tranh đấu của người Á châu và Mỹ gốc Á, khởi đầu từ xưa với việc chống lại những đạo luật khu biệt đối xử, luật đất đai dành cho người ngoại quốc, trại tập trung, vân vân. Những phong trào ấy dẫn đến hoạt động tranh đấu để đời của người Á châu và Mỹ gốc Á trong thập niên 1960. Cũng từng có rất nhiều hoạt động có tổ chức sau vụ sát hại Vincent Chin ở Detroit năm 1982. Rồi bọn KKK hồi năm 1981 khủng bố ngư dân Việt ở Vịnh Galveston, Texas. Trung Tâm Luật Đói Nghèo Miền Nam, một tổ chức đấu tranh cho dân quyền thành lập trước đó một thập niên, đã đệ đơn kiện KKK để bảo vệ ngư dân, và đã thắng.

Má nghĩ thời điểm này có hơi hướm khác biệt vì những công cụ của chúng ta để tổ chức và xây dựng phong trào đã khác, nhưng vẫn còn nhiều thứ chúng ta thấy bây giờ đang được xây dựng trên nền tảng đã được đặt ra từ hồi đó. Đáng buồn, nhưng má không nghĩ rằng những hành động bạo lực này sẽ biến mất qua đêm trong bầu không khí chính trị hiện nay. Chúng ta vẫn phải tiếp tục cuộc phản kháng mà thôi.

 

clip_image003

Một cách hiểu về cuộc Chiến Tranh Việt Nam của nhà hí họa chính trị Paul Conrad,
trên nhật báo Los Angeles Times khoảng năm 1975. Mẩu báo cắt của Nguyễn Tà Cúc

 

Phượng Các: Má vừa cho con xem một bức hí họa (hình trên) mà má cắt ra từ trên báo mấy chục năm trước. Má có thể giải thích chúng ta đang nhìn vào cái gì?

Tà Cúc: Chẳng có gì sai khi biếm họa một cuộc chiến tranh theo ý muốn của mình. Nhưng trong bức tranh này của nhà hí họa chính trị Paul Conrad, từ “Daddy” (nghĩa là cha) xúc phạm người xem. Cách mô tả người đàn bà và đứa con trai của bà gợi ý rằng Miền Nam Việt Nam lệ thuộc vào Hoa Kỳ một cách đáng hổ thẹn. Nó lặp lại tự sự về Miền Nam Việt Nam như là một đất nước đầy gái phục vụ quán rượu và gái mãi dâm. Sự vắng bóng người đàn ông Việt cũng làm sâu thêm một ấn tượng vẫn tồn tại trong sách giáo khoa và trên truyền thông Mỹ rằng đàn ông Nam Việt Nam đã không chiến đấu trong cuộc chiến của chính mình. Conrad cũng mô tả người tị nạn Việt là những kẻ ăn xin, quần áo rách rưới, trong khi làn sóng người tị nạn Việt đầu tiên trên thực tế đã được giới sử học nhìn nhận là trí thức và tinh hoa.

Vấn đề ở đây là ông Conrad giữ trọng trách trưởng ban hí họa của nhật báo Los Angeles Times. Ông ấy đã thắng ba giải Pulitzer. Tóm lại, “ngòi bút” trong trường hợp này có thể “mạnh hơn gươm giáo.” Do đó, những bức hí họa của ông ấy có thể và thật sự đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của độc giả về cuộc chiến. Mặt khác, chúng ta, những người tị nạn Việt Nam, đã không thể đáp trả ông ấy vì chúng ta không có công cụ. Đó là một kiểu im lặng khác mà chúng ta, người tị nạn, phải cam chịu. Má không nghi ngờ gì nếu chuyện này xảy ra ngày nay, ông ấy hẳn sẽ bị thách thức bởi tất cả các diễn đàn mới mà chúng ta có được gần đây.

Và đó là lý do má nói mình vẫn tin vào đất nước này. Chúng ta chỉ cần đề cao cảnh giác và sẵn sàng lên tiếng trong các vấn đề xã hội và chính trị. Bức hí họa đó là một trong những lý do khiến má quyết tâm đưa ra quan điểm của mình về cuộc Chiến Tranh Việt Nam.

Phượng Các: Tiên, kinh nghiệm về kỳ thị chủng tộc của em thế nào? Chị biết đây là một câu hỏi bao quát, nhưng chị rất muốn biết mọi người quyết định bắt đầu câu chuyện của mình ở chỗ nào.

Tiên: Rất khó trả lời. Giống như hỏi, Sống trên đời là như thế nào? Chủ nghĩa thượng tôn da trắng hút hết bao nhiêu là không khí, chiếm hết bao nhiêu là chỗ, lây nhiễm mọi thứ. Nó là một phần nền tảng về thể thức mà rất nhiều định chế và hệ thống của chúng ta được xây dựng đến nỗi em cảm thấy hết sức khó để chỉ ra một, hai, mười hay một trăm điều và nói, “Phải rồi, điều đó tóm tắt được kinh nghiệm kỳ thị chủng tộc.” Cũng đáng để ghi nhớ rằng quá nhiều trong những kinh nghiệm này không chỉ là những kinh nghiệm về kỳ thị chủng tộc; chúng cũng bao gồm nhiều lớp như kỳ thị giới tính và phân biệt giai cấp và sợ hãi đồng tính và vân vân.

Em nghĩ có sức mạnh trong việc chia sẻ kinh nghiệm cá nhân – đặc biệt khi làm vậy giúp thích ứng với chấn thương của chính ta và xây dựng tình đoàn kết bên trong và giữa các cộng đồng – nhưng em hết sức chống lại, và ghét, lời đòi hỏi chúng ta phải làm vậy, đặc biệt trong những thời điểm như thế này, để chứng minh, thêm một lần nữa, rằng nạn kỳ thị chủng tộc hiện hữu. Dị nhiên đã có những chuyện chó ngáp xảy ra với em, nhưng em không quan tâm đến việc sống qua những kinh nghiệm ấy lần nữa để cho những tia nhìn chủ yếu là da trắng biến nó thành hàng hóa và tiêu thụ nó, một điều xảy ra một cách quá thường. Em rất muốn chúng ta chuyển nguồn năng lượng này vào việc củng cố luật lệ kiểm soát súng, làm cho y tế trở nên công bằng hơn, đầu tư thật sự vào những cộng đồng của người da màu, vân vân.

Tà Cúc: Má thật thích cách Tiên đả động đến những vấn đề khác đang tạo vấn nạn cho toàn xã hội của chúng ta: Hơn một thập niên sau khi rời khỏi Đại Học Penn State, má vẫn nhớ đến một cuốn sách trong danh sách bắt buộc phải đọc: Làm Thế Nào Người Ái Nhĩ Lan Trở Nên Da Trắng của Noel Ignatiev. Đối với má, bất kể mọi tranh cãi nảy sinh từ cuốn sách, có một lời nhắc nhở mạnh mẽ chỉ qua cái tựa sách, rằng rất khó ứng phó với nạn kỳ thị chủng tộc, vì không những nó có quá nhiều phương diện, mà nó còn có khả năng nở rộ dưới nhiều bộ đồ ngụy trang, đặc biệt cùng với sự thiếu hiểu biết hoặc dưới áp lực chính trị – xã hội.

Phượng Các: DC, em ra đời và lớn lên tại thành phố Cerritos, California, nơi có một dân số lớn người Á châu sinh sống, do đó em đã khởi đầu đời mình trong một bối cảnh đa dạng. Cerritos thậm chí còn được nhìn nhận là thành phố đa dạng nhất vào năm 1988. Chị thấy đây là điều thú vị vì cho đến khi gia đình ta dọn đến Cerritos, bạn bè cùng lớp của chị hầu hết là da trắng và chị thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ đứng ở giữa những người trông giống mình; điều này còn rõ ràng hơn nữa vì khi ấy chị vẫn còn đang học tiếng Anh. Kinh nghiệm của em như thế nào?

DC: Em chưa bao giờ cảm thấy khác biệt vì mình là người Mỹ gốc Á; quanh em là những đứa trẻ khác cũng có cha mẹ di cư từ những quốc gia khác và hầu hết nói tiếng mẹ đẻ còn tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai hoặc thứ ba của chúng. Ở trường tiểu học, có những điểm tương đồng rõ rệt giữa bọn em: hộp cơm trưa thỉnh thoảng chứa đầy đồ ăn Á châu (cơm, đồ ăn vặt bằng rong biển, một loại thịt nào đó ướp bằng nước tương), hoặc đôi khi đồ ăn Mỹ (bánh kẹp, pho mát và bánh quy giòn) vào ngày hôm sau. Người Á châu, tuy nhiên, không xử sự một cách đồng bộ. Cũng có những khác biệt giữa bọn em, và việc không thấy hình ảnh đại diện của mình trên TV, truyền thông, và nhiều nơi khác nữa, vẫn cho thấy rõ rằng mình thuộc thành phần thiểu số.

Lên đại học, em ở trong vùng thoải mái của mình và hầu hết chỉ chơi với người Á châu, dù em đã bắt đầu mở rộng phạm vi giao tiếp của mình so với hồi ở trường trung học tại Cerritos. Mãi tới khi đi làm trong công ty Mỹ, em mới bước vào một môi trường nơi mà em thường là người Mỹ gốc Á duy nhất trong những buổi họp hoặc trong những căn phòng mà hầu hết đồng nghiệp là da trắng. Em học cách che giấu (hoặc… tránh tiết lộ) bất cứ yếu tố nào khiến người ta nhận ra mình là người Á châu. Em không nói đến việc ba má mình di cư hay em đã được nuôi dạy như thế nào để hòa nhập càng nhiều càng tốt.

Phượng Các: Bắt đầu từ đâu đó khoảng tám năm trước, chị bắt đầu nói với những người mới gặp rằng hãy gọi tôi là “PC” thay vì tên thật của tôi, vì chị không muốn mất công dạy họ cách phát âm hoặc làm khó họ. Tuy vậy, đồng nghiệp của chị ngày nay gọi chị là “Phuong-Cac,” và chị cảm thấy trong môi trường chính trị và xã hội này, đó là một hành động đấu tranh. Họ có thể không gọi tên chị với dấu giọng Việt, nhưng chị khá chắc rằng thứ tiếng Việt Mỹ hóa của mình cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Beth Nguyễn đã viết trên tạp chí The New Yorker về kinh nghiệm đau đớn của bà khi mang một cái tên Việt ở nước Mỹ. Chloe, đến một thời điểm nào đó, em đã yêu cầu mọi người bắt đầu gọi em là “Chloe” và rốt cuộc em đã đổi sang cái tên ấy trên giấy tờ. Điều gì khiến em đi đến quyết định ấy?

Chloe: Trong khi em không có kinh nghiệm nào tồi tệ đến thế, em có thể liên tưởng đến một vài câu chuyện của Beth Nguyễn: sự căng thẳng khi nghe điểm danh trong lớp. Đưa ra một cái tên giả. Tên giả thật ra do người khác đặt cho em, “Ann,” lấy tên Mỹ gần giống nhất với tên Việt của em. Em không ghét cái tên được đặt, nhưng không thấy nó là tên mình.

Em ghét tên mình bị viết sai chính tả; em lo lắng trước cái nhìn dò xét của mọi người khi họ nhìn thấy tên em; em dự đoán sẽ bị hỏi, “Tên của bạn có nghĩa là gì?”, câu hỏi cũng gây cảm giác về chủng tộc vì em chưa bao giờ thấy Kim hay Helen hay Sarah bị hỏi tên của họ nghĩa là gì. Em thường bị nhầm là nam nếu tên em không đi kèm với khuôn mặt hoặc giọng nói của em. Do đó hồi 17 tuổi, em quyết định cho mình một cái tên Mỹ, cái tên mà mình thích và tự chọn. Tạ ơn gia đình, bạn bè và các thầy cô giáo tuyệt vời đã cùng em thực hiện cuộc chuyển đổi này.

Danh tính một người thật sự gắn liền rất nhiều với cái tên của họ, nhưng cái tên không phải là khía cạnh duy nhất nắm giữ danh tính. Thuộc về hai nền văn hóa không có nghĩa là mình phải thuộc nền văn hóa này (Chloe) hay nền văn hóa khác (Nguyễn). Tôi là cả hai cùng một lúc (Chloe Nguyễn).

Tà Cúc: Sau khi nghe chuyện của Chloe, má cảm thấy thấm thía quá. Má không tưởng tượng được hết những khó khăn mà con gái má và những người khác như con phải đối mặt. Má cảm kích vì rốt cuộc, từ kinh nghiệm tập thể ấy, chúng ta bước vào một giai đoạn mới mà bất cứ cái tên nào cũng không phải là gánh nặng cho người mang nó. Về phần mình, má luôn tin tưởng rằng nền văn hóa nào (trong trường hợp của chúng ta) cũng không bao giờ nên giới hạn chúng ta. Má không có tên Mỹ, nhưng má luôn cảm thấy “cả hai cùng một lúc” y như Chloe (đúng vậy!) Nguyễn. Cho đến nay, má đã trải qua nhiều thời gian ở Mỹ hơn là ở Miền Nam Việt Nam. Cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã và sẽ luôn là một phần bản sắc của má, nhưng má đã sinh ra và nuôi nấng tất cả các con ở Hoa Kỳ, thêm vào đó má có nhiều bạn bè và hệ thống hỗ trợ của mình ở đây.

Phượng Các: Tiên, em đã đồng soạn một cuốn sách dạy nấu ăn về câu chuyện nước mắm Red Boat và công thức gia truyền của nhà sáng lập người Việt, và sách sẽ phát hành vào tháng 10. Cuốn sách trước, mà em cũng là đồng tác giả, là về câu chuyện của đầu bếp Mỹ gốc Hàn Roy Choi, xuất bản dưới dấu ấn của đầu bếp quá cố Anthony Bourdain. Em thấy mối quan tâm đến ẩm thực và văn hóa Á châu đã gia tăng như thế nào trong suốt mấy thập niên mà em viết về ẩm thực?

Tiên: Chuyện này có ít nhiều uẩn khúc. Văn hóa Á châu, đương nhiên, không phải là một khối đồng nhất, và quan trọng là ta phải nhận ra sự quan tâm của truyền thông đối với văn hóa ẩm thực Á châu nhìn chung không đồng đều – chẳng hạn như những món ăn Lào vẫn ít thấy góp mặt trên báo chí về ẩm thực. Em cũng không chắc sự quan tâm đến văn hóa ẩm thực Á châu đã tăng nhiều đến thế vì sách báo nhận ra một cách muộn màng rằng từ lâu đã có thị hiếu về ẩm thực Á châu và chỉ mới gần đây họ mới tìm cách khai thác khối thính chúng này, và, tới mức độ nào đó, cố gắng tự nhận là họ sành sõi về nó.

Dù sao, em thấy rất tốt là bọn em đã xuất bản được cuốn sách dạy nấu ăn này mà không cần đến một người dẫn chuyện da trắng. Em nghĩ thậm chí chỉ mười năm về trước, việc bán cuốn sách này hẳn cũng chật vật nếu không có một người viết da trắng gắn liền với cuốn sách. Tuy nhiên, nước mắm là một ví dụ thú vị: Vào thập niên 1980, nó là một nguyên liệu mà nhiều bài báo đã đề cập đến với đôi chút dè dặt hoặc thậm chí cáo lỗi về vị nồng của nó. Nhưng rồi đến những năm 2000, nước mắm dường như là một nguyên liệu xác lập tư cách văn hóa ẩm thực chính tông của bạn, nó được mô tả là bốc và hôi, cứ như khả năng “chịu được nó” của bạn là một điểm hãnh diện thay vì một ví dụ nữa của hiện tượng thực phẩm Á châu bị lạ hóa và truyền thông chỉ tập trung vào thính chúng da trắng. Giờ đây, em cho là chúng ta đã bỏ hơi xa giai đoạn đó, và như thế là rất hay.

Cuộc đối thoại xung quanh văn hóa ẩm thực Á châu đã mở ra cánh cửa để nói về những cách thức mà các bản sắc khác chồng lấn lên bản sắc chủng tộc. Chẳng hạn, những người viết và chủ biên bây giờ mới thật sự quan tâm hơn đến mối liên hệ giữa những giả định về mức giá “nên có” của thực phẩm Á châu với những giả định phổ quát hơn mang tính kỳ thị về giá trị lao động của Á châu, đặc biệt của vùng Đông Nam Á.

Phượng Các: Điều này làm chị nhớ lại chuyện cách đây mới mấy năm, khi chúng ta bắt đầu thấy có những cuộc trò chuyện sôi nổi trên truyền thông dòng chính và trên truyền thông xã hội về hiện tượng đầu bếp da trắng du nhập văn hóa ẩm thực Á châu; em thấy cuộc đàm luận ấy diễn biến ra sao?

Tiên: Đã thay đổi rất nhiều trong khoảng thời gian ngắn, điều đó thật đáng mừng. Hồi em mới bắt đầu cộng tác từ bên ngoài với mục Thực Phẩm của nhật báo Los Angeles Times khoảng năm 2013, em đã cố gắng, nhưng không thành công, thuyết phục họ ngừng in nghiêng những từ không phải tiếng Anh. Vào năm ngoái, rốt cuộc, nhờ sự vận động của Patricia Escárcega, mục Thực Phẩm của tờ báo sau cùng đồng ý cập nhật quy ước về phong cách của mình. Những cuộc đàm luận về sự du nhập, may mắn thay, đã trở nên tinh tế hơn đôi chút và đề cập đến vấn đề quyền lực, và hiện đang có cuộc đàm luận trễ tràng về việc nêu rõ gốc gác và sự du nhập trong việc phát triển công thức. Và nhìn chung, dường như ngày càng nhiều người nhận thấy tin bài cần phải mang tính bao gồm hơn nữa.

Tuy nhiên vẫn còn nhiều việc phải làm. Độc giả da trắng vẫn được ngầm xem là chính. Đầu bếp da trắng vẫn xuất hiện nhan nhản trên tin bài khi họ chỉ làm những việc cơ bản như lên men. Không kể vài ngoại lệ hiếm hoi, nạn kỳ thị chủng tộc bám chặt vào hệ thống vẫn chưa bị tháo dỡ hoàn toàn: Nhiều thương hiệu và công ty xưa kia góp phần duy trì những tự sự kỳ thị chủng tộc và giản lược hóa đến nay vẫn giữ được vị thế. Việc tập chống kỳ thị và áp dụng nguyên tắc đó trên thực tế không thể diễn ra qua đêm, và một điều minh chứng cho sự thể chủ nghĩa thượng tôn da trắng áp bức và nhân rộng, chính là có rất nhiều chủ biên và người viết da trắng mà em đã nói chuyện tin rằng những thông lệ này có thể được lĩnh hội và triển khai thật nhanh chóng.

Như thế thì dù cho em nghĩ chúng ta đã làm rất nhiều để thay đổi cách truyền thông nói về thực phẩm, em chưa tin là đã thật sự có sự chuyển đổi quyền lực đáng kể.

 


Nguyễn Phượng Các, hay PC Nguyen, là Chủ Bút Quản Trị của Tạp Chí Red Canary kiêm chiến lược gia về thiết kế. Bà điều hành Totem, công ty cố vấn về dự báo chiến lược chuyên về tạo thương hiệu và nghiên cứu thị trường phẩm chất qua lăng kính đồng cảm và nhân ái. PC Nguyen có bài đăng trên Los Angeles Times, Conde Nast Traveler, cùng nhiều ấn phẩm khác. Cuốn phim tài liệu của bà về văn hóa độ xe lowrider ở Brazil, mang tên South American Cho-Low, đã được trình chiếu trên đài PBS và tại nhiều đại hội điện ảnh độc lập khác nhau.

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)