Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

B-52 (Chương 1)

0 bình luận ♦ 17.05.2025

Thuận

Tác giả của mười tiểu thuyết, Thuân sống ở Pháp từ năm 1991 và viết văn bằng tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Tác phẩm của cô là đề tài nghiên cứu tại các trường đại học Việt Nam, Pháp, Nga và Mỹ vì lối viết mới mẻ và hài hước đôi khi có thể gây khó chịu. Các tiểu thuyết “Chinatown” và “Elevator in Saigon” của cô đã được dịch sang tiếng Anh và được New Directions, N.Y.C. xuất bản. Tiểu thuyết “B-52” vừa ra mắt công chúng Pháp ngữ, do nhà xuất bản Actes Sud phát hành, với tựa đề “B-52 ou celle qui aimait Tolstoi.”

Tiểu thuyết B-52

Sau khi tốt nghiệp đại học y khoa ở Leningrad, nhân vật chính trở về Hà Nội, thủ đô Bắc Việt, và được giám đốc Nhà Tù Hỏa Lò giao cho một nhiệm vụ đặc biệt: chăm sóc một tù nhân Mỹ mà máy bay đã bị du kích Hà Nội bắn rơi. Cuốn hút bởi chàng trai trẻ Andreï Bolkonski có tên giống nhân vật nổi tiếng của “Chiến Tranh và Hòa Bình,” cô đã cứu anh không chỉ bằng cách chữa trị mà còn mang đến cho anh những trang sách xé vội từ cuốn tiểu thuyết yêu thích mà cô mang về từ Leningrad. Cùng chia xẻ niềm đam mê Tolstoy, họ đã yêu nhau bất chấp tiếng B-52 gầm rú, sự giám sát chặt chẽ của chính quyền cộng sản và việc chia lìa không thể tránh khỏi ngay khi Hiệp định Paris được ký kết.

Hai mươi năm sau, giữa hai nhân vật của chúng ta là một đại dương xa cách. Cô sống ở Paris, làm việc tại các bệnh viện và nhà tù, chữa trị cho cả nạn nhân lẫn tội phạm. Anh sống ở Little Odessa, Hoa Kỳ, và bắt đầu theo đuổi sự nghiệp chính trị để trở thành thượng nghị sĩ người Mỹ gốc Nga đầu tiên. Cô không kết hôn và có nhiều nhân tình. Anh dành tất cả thời gian để làm hài lòng người khác, chiều chuộng các cử tri gốc Nga bằng những đặc sản Nga do chính tay anh chuẩn bị. Cô vẫn yêu Tolstoy. Anh chỉ nghĩ đến các lá phiếu.

Nhân vật cựu sĩ quan Mỹ và tù nhân Hỏa Lò Andrei Bokolsky có những điểm trùng hợp với Cố Thượng Nghị Sĩ John McCain (1936-2018), vì cũng bị bắn xuống hồ Trúc Bạch khi bay sang Bắc Việt bỏ bom, rồi bị nhốt vào Hỏa Lò và bị tra tấn dã man. Trong Hỏa Lò cũng có một điệp viên nhị trùng của miền Nam, biệt danh Z30, phỏng theo tiểu sử của Đặng Chí Bình, điệp viên đầu tiên được chính quyền Ngô Đình Diệm cử ra Hà Nội công tác. ”B-52” là một tiểu thuyết lôi cuốn với nhiều tình tiết, bối cảnh và các nhân vật đa dạng, quan sát tinh tế, cùng lối viết hiện đại. “B-52” cũng cho người đọc biết thêm về chiến tranh Việt Nam từ góc nhìn của người dân Hà Nội, phải chịu đựng bom Mỹ thời Nixon/Kissinger và đóng góp một câu chuyện khác vào chủ đề tha hương vốn đã rất phong phú trong văn chương thế giới.

 

 

Người đàn ông trung niên được đám đông vây quanh, hậu cảnh là một tòa nhà gạch đỏ, có lẽ thuộc nước Mỹ. Bức ảnh không gợi cho tôi điều gì. Nhưng cái tên – Andrei Bolkonsky – khiến tôi giật mình. Y như lần đầu tiên tôi thấy nó trong danh sách bệnh nhân, những người tù đặc biệt của Hỏa Lò Hà Nội. Người đàn ông bị thương ở mắt cá chân trái. Và ở vai phải. Những vết đâm của lưỡi lê, một lưỡi lê han gỉ. Bộ xương trên mặt thềm bê tông. Một bộ xương trọc lốc mặc pyjama kẻ sọc. Hình ảnh này không bao giờ rời bỏ tôi. Hai mươi năm sau, trên báo Rousskaïa Mysl, bệ vệ, mặt tròn và hói đầu, com lê sang trọng, Andrei Bolkonsky đọc diễn văn trước một tòa thị chính gạch đỏ. Tôi cố tìm lại màu mắt của anh. Tôi chỉ tìm được những ngày khốn khó. 

Anna Karenina ngó tờ báo của cộng đồng Nga kiều giữa hai bàn tay tôi:

     – Bác sĩ có cần dịch sang tiếng Pháp?

Trong trại giam ngoại ô Paris, không ai biết tôi nói được tiếng Nga. Cách đây hai mươi năm, trong nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, tất cả ban giám đốc đều biết tôi không nói được tiếng Anh. Bác sĩ không nói được tiếng Anh là yêu cầu đầu tiên của họ. Họ cũng biết tôi tốt nghiệp đại học Y khoa Leningrad, bằng đỏ. Liên Xô, Lê-nin, màu đỏ, giúp họ an tâm trong cuộc chiến sống còn với người Mỹ.  Hai mươi năm trước, trong nhà tù Hòa Lò, cái tên đặc biệt của người tù nhân Mỹ chỉ khiến mỗi tôi bần thần. Về Andrei, họ đã thu thập thông tin từ nhiều nguồn, nhất là hỏi cung. Cha mẹ, cấp trên, bạn học, người yêu, địa chỉ gia đình, kết quả các môn thi tốt nghiệp ở khoa Điện Tử, nhiệm vụ trong phi hành đoàn của B-52… Nhưng sở thích của mẹ anh, một phụ nữ Mỹ trung lưu, họ lại vô tình bỏ qua. Fan của tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, mẹ anh đã chấp nhận kết hôn với một di dân nghèo vưa chân ướt chân ráo từ Nga sang, chỉ vì mê cái họ Bolkonski.Tên nhân vật yêu thích của mẹ anh đã được đặt cho anh, cậu con trai đầu lòng.Năm tuổi, Andrei Bolkonski đến trường tiểu học Nga kiều ở khu Russian Hill. Mười tuổi, anh bắt đầu khám phá Tolstoi. Mười lăm tuổi, anh đọc xong ba tập của Chiến tranh và hòa bình. Nhưng hai mươi lăm tuổi, anh nhận bằng tốt nghiệp trường Sĩ quan Không quân, khoa điện tử. Mẹ anh lo lắng. Bà không ngờ cái tên nhân vật yêu thích nhất của mình lại ám lên số phận con trai. Hàng đêm, bà cầu xin Thượng Đế bảo bọc anh, ban cho anh ít phần chiến tranh, nhiều phần hòa bình. Chồng bà, ngược lại, không giấu nổi hài lòng. Theo kinh nghiệm cá nhân, ông biết với di dân ở xứ xở cờ hoa, binh nghiệp là con đường ngắn nhất để đổi đời. Tuổi thơ Andrei chìm đắm trong sách vở và ông rất sợ con trai sẽ trở thành nhà văn…  Nhận một viên đạn vào đầu hay tim và hy sinh trên mặt trận, ông thấy có ý nghĩa hơn nhiều so với chết dần chết mòn, vì cô độc, nghèo đói hay ảo tưởng. Nhà văn là chúa hay ảo tưởng. Trong các bữa trưa chủ nhật, tay cầm ly vodka, ông nói với Andrei:          – Cha cóc quan tâm tới Chiến tranh và hòa bình, nhưng có vẻ ông đồng hương Lev Tolstoi của cha đã kết thúc đời mình trong nợ nần và đau ốm, vì đi theo cái gọi là “phản kháng bất bạo động,” một chủ nghĩa không tưởng ngu xuẩn. 

Những giai thoại xung quanh cái tên của mình, Andrei không kể ngay lập tức cho tôi. Ở Hỏa Lò, chúng tôi chỉ gặp nhau nửa tiếng mỗi ngày. Như một bác sĩ và một bệnh nhân. Như những đại diện của hai chiến tuyến. Hội nghị Paris vừa bắt đầu. Hà Nội dồn sức chống trả Linebacker II, chiến dịch ném bom khốc liệt của Washington nhằm xóa sổ thủ đô Bắc Việt. Buổi sáng Noel năm 1972, quản giáo vừa ra khỏi xà lim, tôi nói với Andrei, lần đầu tiên, và bằng tiếng Nga:

     – Đáng tiếc chúng tôi không có cả trứng cá đen lẫn thịt bò Stroganov, nhưng công tước nên ăn hết chỗ này để lấy lại sức! 

Anh ấy nhìn tôi, chiếc thìa trong tay rơi xuống đất. Từ hai ngày nay, anh ấy cầm thìa nhưng không động đến xuất ăn. Xúp bí đỏ nấu với muối và mì sợi luộc. Trong sân, cây bàng co ro giữa gió mùa đông-bắc. Sương phủ thành cục trên những mái ngói xiêu vẹo. Không khí sực mùi phân người và nước tiểu. Những người tù Việt Nam đứng xếp hàng để nhận khẩu phần ăn sáng, đựng trong những cái bô. Rau muống già và cơm gạo hẩm. Ngày ba bữa rau muống già và cơm gạo hẩm. Các bệnh nhân trong bệnh viên nơi tôi làm việc, cũng ngày ba bữa rau muống già và cơm gạo hẩm. Trong tất cả các bệnh viện của miền Bắc Việt Nam những năm tháng đó, bệnh nhân không có gì ngoài rau muống luộc và cơm gạo hẩm. Những ngày đầu từ Leningrad trở về, tôi ngơ ngác nhìn các đồng nghiệp chia nhau một con dao mổ và tiết kiệm từng giọt huyết thanh. Khắp nơi, đói là căn bệnh dễ mắc nhất.  Người ta ăn cóc, rắn, chuột, nhện, cào cào, thậm chí nhau bà đẻ. Rồi tôi cũng quen cách sống bằng lạc quan. Nước, không khí và lạc quan. Ở đây, lạc quan cách mạng có mặt khắp nơi: đó là từ khóa trong sách, báo, đài và khẩu hiệu.

Tôi rắc kháng sinh lên mắt cá chân cho anh. Tôi bắt mạch. Tôi đo nhịp tim. Những tiếng đập không đều. Những tiếng rin rít trong lồng ngực. Ngoài sân, loa công cộng đọc tên các nạn nhân phố Khâm Thiên. Đêm hôm trước, B-52 đã ném bom xuống con phố bé nhỏ nhưng đông dân bậc nhất của trung tâm Hà Nội. Danh sách rất dài. Mẹ của một đứa bạn cùng lớp. Con gái một gia đình hàng xóm. Cháu trai một đồng nghiệp của cha tôi. Em một người bạn của bà nội tôi…

Từ hai ngày nay, Andrei cầm thìa nhưng không động đến xuất ăn. Xúp bi đỏ nấu muối và mì sợi luộc. Phó giám đốc Hỏa Lò gọi tôi lên: “Chúng ta phải cho thế giới biết bản chất ưu việt của chế độ ta. Nhưng đồng chí không cần phí phạm thời gian với kẻ thù!”Tôi im lặng. Mắt cá chân sưng to và mưng mủ. Vết đâm của lưỡi lê. Một lưỡi lê đã cùn, rỉ sét và lấm bùn ao. Phẫu thuật cắt bỏ là khả năng không nhẹ, nhưng đó là việc cần nhiều công sức.  Ngày hôm sau, khi quản giáo sang xà lim bên cạnh, tôi nói với Andrei, cũng bằng tiếng Nga:“Nếu bị cưa mất một giò, công tước không thể khiêu vũ.”Mí mắt của anh ấy rung nhẹ. Cái nhìn tối sầm. Ngày hôm sau nữa, khẩu phần của anh vẫn còn nguyên. Nhưng ngực và lưng nhận được nhiều vết tím. Giám đốc Hỏa Lò gọi tôi lên:“Chúng ta phải cho thế giới biết bản chất ưu việt của chế độ ta. Nhưng đồng chí không cần phí phạm thời gian với kẻ thù!”Chủ nhật, bạn trai của tôi ghé nhà, ngồi cách tôi ba mét:“Chúng ta phải cho thế giới biết bản chất ưu việt của chế độ ta. Nhưng em không cần phí phạm thời gian với kẻ thù!” Bạn trai tôi sau đấy cắt dần quan hệ. Tôi cũng không có ý định tìm cho rõ ngọn nguồn. Tôi từng nghĩ anh ấy kinh hãi mùi Hỏa Lò toát ra từ cơ thể tôi. Rồi tôi lại tự hỏi có phải anh ấy sợ mùi Hỏa Lò sẽ bám vào lý lịch. Những người nuối tiếc là gia đình tôi. Cha tôi trong nhiều tháng liền sau đấy luôn giữ một bộ mặt mà thiên hạ gọi là bố vợ phải đấm, tuy ông chưa có dịp nào được là bố vợ của bất kỳ ai. Mẹ tôi thì tỏ ra bình thản, dù tôi cảm giác trong lòng bà còn cay cú hơn cả cha tôi: không phải vì con gái cứng tuổi đã bị cưới hụt, mà vì chính bà mất cơ hội được kết nghĩa thông gia với hai vị thứ trưởng. Giờ đây nghĩ lại, tôi vẫn không hiểu làm sao trong những ngày tháng chết chóc đó, bên những bữa cơm đạm bạc đến tủi nhục, những điều kiện làm việc thô sơ ê chề, người ta vẫn còn có thể cay cú về những điều xa xỉ như hôn nhân.     

         – Bác sĩ có cần dịch sang tiếng Pháp? Anna Karenina lại hỏi.

Trong số những bệnh nhân của trại giam này, bà ấy là người có nhiều vấn đè sức khỏe nhất: tiểu đường tuýp 2 ở mức cao, nguy cơ biến chứng tim mạch. Tôi vẫn thường bảo bà ấy phải thôi ăn kẹo nếu bà ấy không muốn chết vào tháng sau. Nhưng vô ích. Bà ấy nhìn tôi khinh khỉnh. Giám đốc trại giam gọi tôi lên:“Bác sĩ không cần phí phạm thời gian với một người đã ra tay giết chồng!”A, người ta nói với tôi rằng bà ấy từng là ngôi sao của một nhà hát thành phố Rostov-trên-Sông-Đông.  Chính biệt danh Anna Karenina đã được sinh ra từ vai diễn mà bà ấy từng đảm nhiệm hàng trăm lần trong thời hoàng kim của mình. Nhưng tại sao bà ấy bị đi tù ở Pháp thì tôi không rõ. Bà ấy không có vẻ độc ác. Bà ấy hay hỏi tôi:“Bác sĩ có thích Tolstoi?” rồi bà ấy dẫn “Trong tình yêu, không có điều gì nhiều hơn hay ít hơn,” hoặc “Tôi quá tự tin để yêu một người đàn ông không yêu mình.” Khuôn mặt bà ấy hơi nặng nề, nhưng giọng nói còn hấp dẫn và đầy nhạc tính, với âm điệu đặc trưng của người nói tiếng Nga. Tôi đề nghị phó giám đốc trại giam cho tôi gặp Anna một lần nữa. Ông ấy gật đầu, còn cử nữ quản giáo trưởng đeo súng đi cùng.  

Vừa bước chân vào phòng giam của Anna, tôi đã nhìn thấy cái tên Andrei Bolkonski trên tờ Rousskaïa Mysl. Tôi lướt nhanh bài báo, nhìn vào khuôn mặt anh ấy rồi dừng lại ở đôi mắt. Hẳn là tôi đã thẫn thờ. Anna đã quan sát tôi chăm chú, như thể linh cảm một chuyện bất thường, một mối liên hệ nào đó giữa tôi và người đàn ông trong ảnh.

     – Nếu trừ đi hai mươi tuổi và giảm đi hai mươi cân, anh ta có thể là chàng công tước điển trai của Chiến tranh và hòa bình! Anna nói.

Không, nếu trừ đi hai mươi tuổi và giảm đi hai mươi cân, Andrei Bolkonski trông giống một bộ xương. Một bộ xương trọc lốc mặc pyjama kẻ sọc, trên nền bê tông của nhà tù Hỏa Lò. Một bộ xương khóc tu tu hàng đêm. Một buổi sáng, đang rắc bột kháng sinh lên mắt cá chân cho Andrei, tôi nghe thấy từ xà lim bên cạnh một giọng đàn ông, nhỏ nhưng rõ:

      – Bác sĩ không cần phí phạm thời gian với một tên công tử Mỹ bạc nhược!

Tôi nhìn vội ra phía hành lang. May mà quản giáo không còn đó.    

      – Hắn khóc tu tu suốt đêm!

Tôi giật nảy mình. Tôi nhìn Andrei. Một cái nhếch mép khiến khuôn mặt anh méo mó, một khuôn mặt chỉ còn da bọc xương và hai hố mắt, một khuôn mặt ngay sát vai tôi.

     – Bác sĩ sẽ thấy người Mỹ sắp nhắm mắt cho Hà Nội tấn công Sài Gòn. Rồi họ sẽ bỏ mặc chúng tôi.

Tôi không trả lời. Cái giọng đàn ông đó tiếp tục, nhỏ nhưng rõ:

     – Lần đầu tiên nghe hắn khóc tu tu, tôi đã hiểu chúng tôi đã chọn nhầm đồng minh, chúng tôi sẽ thua cuộc chiến này.

Xà lim lại rơi vào im lặng. Nhưng khuôn mặt Andrei lệch hẳn đi, cái nhếch mép trở thành vết rạch dài kéo từ má đến cằm. Tôi đoán rằng giữa hai người đã có một cuộc đối đầu trong đêm. Người đàn ông kia có lẽ đã lên tiếng trước và cũng là người duy nhất mở miệng, bằng cái giọng nhỏ và rõ của mình. Còn Andrei thì im lặng. Vì hổ thẹn. Một nỗi hổ thẹn có lẽ kéo dài suốt ngày, suốt tháng, có thể suốt thời gian còn lại trong Hỏa Lò, thậm chí cả thời kỳ đầu khi quay về Mỹ, bước chân vào chính trường. 

Sau này tôi biết được rằng người đàn ông ở xà lim bên cạnh chính là Z30, một trong những điệp viên đầu tiên mà Sài Gòn đánh sang bên kia vĩ tuyến Mười Bảy. Được đưa ra biển Đà Nẵng bằng tàu hải quân, tiếp theo là xuồng cao su men theo các bãi biển miền Trung rồi miền Bắc, Z30 cuối cùng đã đơn thương độc mã đặt chân đến tận Hà Tĩnh và bị công an chống phản gián của Hà Nội bắt gọn ngay trong tuần hoạt động đầu tiên. Bị kết tội “phản bội tổ quốc, hợp tác với quân xâm lược đế quốc Mỹ, ”ông ta đã trải qua một phần tư thế kỷ chuyển từ các nhà tù này đến các trại cải tạo kia trên khắp miền Bắc Việt Nam. Một khi được tự do, ông ta đã quyết định lên thuyền vượt biên. Sau khi chịu đói, khát, bệnh tật, cướp biển và hải phong[1], giống hàng triệu thuyền nhân khác, ông ta đã đến được Hoa Kỳ, rồi cùng vợ con dừng lại sinh sống ở Nam California. Bán rất chạy trong cộng đồng người Việt hải ngoại, cuốn hồi ký hấp dẫn của ông ta nhận được một lời đề nghị kỳ lạ: nó sẽ được dịch sang tiếng Anh và xuất bản bởi một nhà xuất bản Mỹ với điều kiện tác giả chấp nhận bỏ đi một số đoạn. Ông ta không tin ở tai mình. Ông ta đã hỏi lại, bằng cái giọng nhỏ nhưng rõ cố hữu của mình:“Các vị không thích những trang nào?” Người ta đã trả lời ông ấy một cách thản nhiên:“Tất cả những trang không có lợi cho Washington.”Ông ta đã nói không. Ông ta đã từ chối kiểm duyệt, như một người cầm bút đích thực.

Nhưng đó là chuyện của sau này, chứ hai mươi năm trước, ở nhà tù Hỏa Lò, còn gọi là Hanoi Hilton, tình cảnh của Z30 bi đát, bi đát hơn nhiều so với Andrei. Bị các đồng chí bỏ rơi hoàn toàn, bị đối phương tra tấn không thương tiếc, ông ta đã trút cơn tức giận lên đầu Andrei Bolkonsky, hay đúng hơn lên những tiếng khóc tu tu hàng đêm của viên sĩ quan quân đội Hoa Kỳ những âm thanh bật ra từ ngực, từ sợ hãi, từ cảm giác bất công và vô lý. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng khóc của Andrei. Tôi chỉ nhìn thấy những vết trắng loang lổ trên hai ống tay áo, những ống tay áo của bộ pyjama kẻ sọc cũn cỡn, giống hàng trăm bộ pyjama được Hà Nội sản xuất vội vàng, để phục vụ các vị khách không mời mà đến của mùa Giáng Sinh 1972.     

 

[1]Hải phong là cách nói của người miền Bắc về bão biển.

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)