IV
Thế là đã hơn một năm từ khi ông trở lại Mỹ sau chuyến đi thăm Việt Nam. Đó là thời gian đầy biến động, xáo trộn. Ông thấy rằng phải suy xét lại nhiều điều mà trước kia ông không để ý hoặc muốn quên đi. Chuyến đi vừa qua quả đã để lại những ấn tượng mạnh.
Tối hôm ấy, rời Thanh Đa, Thi chở ông trên xe Honda hai bánh chạy quanh ngắm Sài Gòn ban đêm, rồi họ đến khách sạn ăn uống, nghe nhạc, chuyện trò cho mãi đến khuya.
Ông không đề cập gì đến chuyện cô gái đề nghị làm đám cưới giả để cô có thể đi Mỹ sớm, làm lại cuộc đời. Ông hoài nghi. Ông cho rằng cô gái quỷ quái này không nói thật lòng mình. Thà rằng cô nói thẳng cô thích đi Mỹ như bao nhiêu người khác cũng thích như thế. Đằng này đám cưới giả, rồi quê hương, tổ quốc, rồi người thân, rồi chú đâu cháu đó. Cô ta cũng không muốn nhắc nhở lại chuyện ấy, ông có cảm tưởng như thế.
Cho mãi đến khoảng 2 giờ sáng, ông vẫn làm bộ vui vẻ và chăm chú nghe Thi nói huyên thuyên đủ chuyện. Cuối cùng ông bảo cô hãy lái Honda về nhà một mình cho tiện, ông sẽ đi tắc xi về khách sạn của ông sau. Cô gái nhìn ông không giấu được vẻ sửng sốt. Tại sao vậy? Ông không muốn nghĩ rằng cô ngạc nhiên vì ông không bảo cô cùng ông trở về khách sạn của ông.
Ông còn nhớ rõ nét mặt cô gái khi hai người chia tay trước cổng nhà hàng — khách sạn đó. Thi cười không thành tiếng, khác hẳn tiếng cười ròn rã mọi khi, mấy cái răng đều đặn cắn vào môi dưới đến tái nhạt, đôi mắt gần như lạc lõng.
Khi tiếng máy đã nổ, và khi đã ngồi yên trên xe, cô bỗng có vẻ cáu kỉnh, ngực phập phồng, nét mặt đanh lại. Ông áy náy vội nói:
“Thi có sao không? Lái xe một mình về khuya quá có sao không? Hay là cứ chở chú về nhà cháu, rồi chú thuê xe về khách sạn của chú sau?”
“Khỏi cần!”
“Chạy cẩn thận nghe. Chúc Thi về nhà ngủ ngon! À, lấy nón bảo vệ ra đội cho an toàn.”
“Vớ vẩn. Lúc đi có chú ngồi sau nên cháu để nón ở nhà rồi.”
Trước khi phóng xe ra khỏi cổng, cô gái nhìn thẳng vào mặt ông hỏi một cách gắt gỏng:
“Ngày mai chú tới không? Gặp cháu không?”
“Chú tới chứ, chú tới chứ. Bậy quá, lẽ ra chú phải nói cho cháu biết trước điều đó.”
“Tới hả? Hay đừng tới nữa! Mấy giờ chú tới để cháu biết mà chờ.”
Ông thở dài trả lời:
“Chú sẽ tới sớm trước khi cháu ngủ dậy. Mấy giờ cháu dậy?”
“Chín.”
Ông hỏi gặng thêm:
“Chín giờ hả Thi?”
“Thì cháu đã nói rồi mà.”
“Chú tới đúng giờ. Rồi mình kéo nhau đi ăn sáng,” ông vội nói thêm.
Chưa nghe hết câu, cô đã phóng xe nhanh không quay đầu lại. Ông đứng yên nhìn theo. Ban đêm khó thấy, chỉ loáng một cái, cô gái đã khuất dạng. Ông đứng đó một hồi lâu cho đến khi không còn nghe tiếng máy xe của Thi, không còn nghe gì nữa ngoài tiếng gió thổi nhẹ qua những ngọn cây bên đường. Ông lẩm bẩm, khác hẳn với ban ngày, đêm Sài Gòn mùa hè không oi bức như ở Hà Nội hoặc Huế, trái lại lắng xuống êm ả. Trong khi lòng mình bỗng dưng dấy lên những đợt sóng âm ỉ.
Một anh phục vụ trong khách sạn đi vội đến hỏi ông cần gọi tắc-xi không, ông gật đầu.
Gần hai tuần ở tại Sài Gòn, ngày nào ông cũng đến gặp Thi. Quả thật nếu không có Thi, ông không biết phải làm gì cho hết giờ. Đi thăm bà con, bạn bè? Không còn một người nào. Người thì chết, người thì mất tích, người thì đã đi ra nước ngoài sống tại nhiều nơi trên thế giới. Không lẽ lại bay ra Bắc, bay ra Huế, tìm lại những nơi mình vừa đi qua, dù là đi qua một cách vội vàng. Phải có một thời gian năm bảy tháng chen vào giữa những chuyến đi như thế chứ.
Từ khi gặp Thi, thỉnh thoảng ông cũng có nghĩ đến cô phụ tá quản lý khách sạn, nhưng ông không muốn dính líu đến cô ấy nữa. Để kết thúc mối tình vội vàng ấy, lần cuối khi gặp cô tại khách sạn, ông nói dối rằng ông sắp sửa trở lại Mỹ, biếu cô một món quà khá đắt tiền, hứa sẽ giữ liên lạc.
Riêng đối với cô bé đường Vạn Hạnh “mướn” người ta đặt cho mình cái tên Châu Lệ Thường, ông quên bẵng. Đúng như lời cô bé nói, các anh toàn là đồ ba xạo, mới gặp ưa hỏi han, săn đón, rồi quên phứt ngon lành!
Mấy tháng sau khi đã về Mỹ, tình cờ ông nhớ ra và muốn gởi cho cô bé đáng thương ấy một số tiền. Khổ nỗi, ông để lạc mất tấm giấy ướt nước mưa cô bé hôm đó hí hoáy biên địa chỉ vào. Ông ân hận vì chuyện ấy và định bụng khi nào trở lại Việt Nam, ông sẽ tìm về đường Vạn Hạnh. Biết đâu sẽ gặp lại cô bé!
Hơn một năm đã trôi qua từ khi ông gặp Thi, đứa con gái của Thủy. Trước kia, suốt hai mươi mấy năm trời, trừ mấy tháng đầu tiên bỡ ngỡ, ông đã sống như một cái máy: học hành, làm việc, du lịch. Ông cố quên mọi chuyện cũ, ông cố kiếm nhiều tiền. Ở Mỹ kiếm tiền dễ quá miễn là mình chịu khó làm lụng và biết để dành.
Những người đồng sở và cùng chức vụ như ông, nhất là người da trắng có vẻ như không bao giờ có dư tiền. Họ hoang phí? Họ kiếm ra đồng nào xài béng hết đồng ấy? Họ chưa trải qua những khổ nạn nên chưa biết lo xa?
Ông không muốn có một kết luận dễ dàng như thế vì quả thật ông không biết rõ nếp sống của họ. Thỉnh thoảng ông tham dự tiệc tùng, lễ lạc với họ, thậm chí có những cuối tuần ông đi câu cá, đi hiking suốt ngày với Mike, người bạn đồng nghiệp vui tính, hoặc đạp xe đạp đua với nhóm The Dylan Bros. dọc theo bờ sông Santa Ana cạn queo. Ở gần nguồn hay mãi đến gần cửa biển mới có nước. Hoặc cùng với Bob, người láng giềng, từ chập tối cho đến khuya bên nhau trong một quán rượu, TV đặt khắp nơi trình diễn nhiều chương trình khác nhau, ngồi trên ghế cao trước quầy rượu uống hết ly này đến ly khác, xem các trận đấu thể thao, hay xem các phim action, hay chẳng xem gì cả, chỉ ngồi yên nghe những thực khách thảo luận sôi nổi về những chuyện vớ vẩn như sở thích về màu sắc của của một nữ tài tử xi nê vừa được đề cử giải diễn viên phụ của giải “Quả Cầu Vàng”, câu tuyên bố vô duyên của một siêu sao bóng rổ liên quan đến tương lai nền giáo dục thiếu nhi Hoa Kỳ, hoặc những vấn đề thời sự trọng đại, nóng bỏng về chính trị, kinh tế, và nhất là tranh cử tổng thống.
Nhưng đó chỉ là những biểu hiện hời hợt bên ngoài trong một quán rượu. Trong một xã hội Mỹ rất đa dạng, chắc chắn còn nhiều sinh hoạt khác mà ông chưa có khả năng, chưa có cơ hội bén mảng đến.
Ngoài ra, họ có quan niệm riêng về đời sống mà ông chưa thấu hiểu hết, họ có những thói quen riêng mà ông chưa thể san sẻ một cách trọn vẹn. Dù đã có quốc tịch Mỹ từ lâu, dù đã là công dân Mỹ, ông biết rằng ông vẫn là người đứng bên rìa, sống ở ngoại ô của các sinh hoạt dòng chính, sống ở váy ngoài, chưa chui được vào bên trong, live on the outskirts. Có một lằn phấn vô hình ông không thể và không muốn bước qua, nhưng ông không lấy thế làm phiền lòng. Như một người lưu vong, ông vui vẻ chấp nhận một số thua thiệt tất nhiên phải có.
Ông thích du lịch. Ông có một nhóm bạn du lịch. Vì ông thích ngắm cảnh mới, thích quan sát và thưởng thức những nếp sinh hoạt lạ chăng? Có lẽ một phần là thế nhưng phần khác là khi đi du lịch người nào cũng giống như người nào. Mọi sắc dân, mọi màu da, mọi nguồn gốc đều có thể hòa nhập vào với nhau nếu cần, hoặc tách rời nhau nếu muốn, một cách thoải mái và tự nhiên. Tự do và bình đẳng. Không cần biết quá khứ của nhau. Nhưng nếu thích, tha hồ tâm sự với nhau, kể cho nhau nghe những chuyện riêng tư nhất, không cần giữ kẽ giữ ý, không cần làm dáng, không cần đề phòng. Rồi ai đi đường nấy, quên hết, không chút bận tâm. Như bèo giạt mây trôi.
Sau chuyến về thăm quê hương, cuộc đời của ông không còn êm trôi như trước nữa. Ông nhìn lại cuộc sống, nhìn lại bản thân, cảm thấy cô đơn hơn và buồn hơn. Ông dần dần xao lãng những buổi họp mặt uống cà phê và tán gẫu với mấy người bạn vào sáng chủ nhật. Thảng hoặc, một chút hy vọng lóe lên, hy vọng về điều gì ông chưa rõ, nhưng thường thì ông cảm thấy bất an, hoặc trống rỗng, hoặc lo âu, hoặc phiền muộn.
Không phải chỉ vì câu chuyện của Thi mà thôi. Thật ra những gì liên quan đến cô bé ấy cho đến giờ phút này mang đến cho ông một thứ tình cảm nhẹ nhàng, êm đềm hơn là nặng nề, bực bội. Nhưng còn có những vấn đề khác nữa. Những người ông tình cờ gặp trên đường phố, những lần viếng thăm miền Bắc, quê cũ miền Trung, vùng mộ, rồi miền Nam, rồi Bến Tranh, và tiếng còi tàu, và chiếc cầu sắt bắc qua con sông nhỏ, thậm chí cơn mưa rào bay trên Sài Gòn và những ngoại ô — những thứ đó thường luẩn quẩn trong tâm trí ông. Và ông khám phá ra rằng ông có thói quen mới.
Trước kia đi đâu, ông cố đi nhanh cho đến nơi càng sớm càng tốt. Nay ông thỉnh thoảng dừng lại lâu trên những chặng đường. Khi thì đậu xe bên đường ngồi hàng giờ nhìn sườn núi đổi màu như thay áo, rực rỡ, rồi ảm đạm dần, rồi tối đen cùng với mặt trời lặn. Khi thì đứng trên đồi cao nhìn những phố xa, phố lạ dưới kia cùng với nhà cửa chen chúc, người người lố nhố li ti như những đàn sâu, đàn kiến mà một ngày nào đó có thể có Thi đi lẫn trong đó. Nó sẽ hòa đồng với cuộc sống mới, hay cũng lạc lõng như mình? Nó khác mình, với cái tính khí ấy, có thể nó hội nhập dễ dàng chăng. Hoặc đứng trước biển vắng nhìn xa tận nơi mặt nước và chân trời gặp nhau, rồi theo dõi những đợt sóng ở ngoài khơi trôi vào, cao dần, rồi dàn thành hàng dài như biển người rầm rộ kéo nhau vào bờ ồ ạt tấn công, hãm thành, đâm chém, vâng, sóng tràn vào bờ có khác gì đoàn quân nhô lên hụp xuống quyết chiếm cho được mục tiêu, và càng gần đến mục tiêu càng gục ngã, càng chìm xuống, càng xẹp xuống, rồi mất hẳn, không còn để lại gì trên bãi cát phẳng. Họa chăng còn lại lớp bọt nước chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn dưới ánh mặt trời.
Và ông thảng thốt tự hỏi tại sao một quang cảnh thường thấy như thế, sóng biển nào mà không vỗ vào bờ, lại hiển hiện lên thành cảnh chiến trường. Sự vật đã xuyên qua cái lăng kính méo mó, xám xịt, rối loạn của mình?
Hồi còn trẻ, cũng có khi thảng thốt, nhưng nó giúp ông mở mắt ra bắt gặp những khía cạnh khác của cuộc sống, khoáng đãng hơn, tươi mát hơn, mới mẻ hơn. Một lần, nằm lười nhiều ngày vì cơn cảm cúm kéo dài, một buổi sáng thức dậy nhìn lên qua khung cửa giật mình thấy một cánh chim đang bay trên bầu trời xanh, xa dần, khuất dần, như là lần đầu tiên trong đời ông được thấy. Lòng bồn chồn, rạo rực, bay theo cánh chim.
Từ đó mới biết rằng ngoài xa, bên ngoài những ngôi nhà chật hẹp, những láng giềng tù hãm, những phố phường quen thuộc, còn có những tiếng gọi phương xa, những thúc giục lên đường.
Một buổi chiều cuối năm về Bến Tranh ăn Tết với gia đình Thủy. Từ xa đã thấy ngôi nhà ấy với mái ngói đỏ, với tường vôi trắng ẩn hiện sau những chòm cây xanh. Khung cảnh ấy hẳn ông đã nhìn nhiều lần mà chưa thực sự thấy, nhưng hôm đó ông thảng thốt nhìn kỹ, và thấy, và cái mái ngói đỏ ấy, và khung tường vôi trắng ấy bỗng dưng hiện lên rực rỡ choán ngập cả hồn ông. Rồi ông cảm nhận ra ngay một mối tình bất diệt không những đối với Thủy mà thôi, mà còn đối với cả gia đình Thủy, đối với bầu trời, mảnh đất, và xóm làng nơi ấy.
Nhưng con sông thì khác. Con sông và ông thân thiết với nhau từ thuở xa xưa. Ông không bao giờ thấy ngỡ ngàng hoặc ngạc nhiên khi đứng trước một dòng sông. Nó luôn luôn mang lại những liên tưởng đến cuộc đời trôi nổi của ông, hoặc vui, hoặc buồn, hoặc sum họp, hoặc chia ly… Con sông là dòng máu chảy, là cảm xúc, là ý tưởng. Những con sông có bờ, có bến, có bãi, có bên lỡ bên bồi, có lau lách, có cù lao, có cồn cát, có bèo giạt, có thuyền trôi, có cá vẫy nước. Và dòng nước là tấm gương soi thì đổi màu từng ngày, từng giờ theo những đám mây lơ lửng trên trời cao thỉnh thoảng hiện lên bóng chim uốn mình mơ hồ. Lại có khi lặng lẽ, mơ màng trôi, có khi giận hờn, nổi sóng cồn cào. Còn nữa, có khi thì thầm nói chuyện riêng với ông từ dưới đáy sâu, có khi ca hát vang lừng với trời, mây, gió…
Những con sông như thế mất dần. Còn lại là nhiều con sông mà hai bờ được đúc xi măng, hoặc được xây bằng đá tảng cứng trơ. Hoặc tệ hơn nữa, lòng sông cũng bị bàn tay người trấn áp, vào mùa nước cạn, phơi bày lớp xi măng dày đặc, kiên cố.
Trong mấy mươi năm sống trên đất Mỹ, lái xe trên những con đường dài thỉnh thoảng gặp dòng sông còn nguyên nét hoang sơ, chẳng hạn như mấy khúc sông chạy song song với xa lộ 70 từ biên giới Utah và Colorado đến Denver, ông hết sức vui mừng như gặp người quen thân cũ. Ông bớt ga, đổi qua lối dành cho xe chạy chậm, chạy từ từ xem dòng nước chảy cho đến khi con đường bỏ con sông tách đi lối khác. Nếu không có việc gì gấp rút cần phải làm cho kịp thời hạn, ông thường dừng xe lại tìm chỗ đậu ngồi nhìn sông trôi.
Ông thường bị mất ngủ. Trước kia, khi nào không ngủ được, ông mở nhạc nhẹ nghe, hoặc lấy sách ra đọc, thường là truyện phiêu lưu, án mạng, trinh thám, gián điệp của Anh, Mỹ. Vẫn ngủ không được, đọc những thông báo về bảo hiểm, y tế, tài chánh, đọc những quảng cáo, quảng cáo thì thôi khỏi nói, được gởi về chiếm hết gần trọn mớ thư từ mỗi ngày, đọc mà không cần nhớ những dữ kiện, những con số, những thống kê. Đó là những thứ ông thường vứt vào một thùng giấy lộn.
Rất hiếm khi ông đọc sách có những đề tài động não, “nặng ký”, hoặc của những tác giả thời danh. Ông không có thói quen ngồi hàng mấy tiếng đồng hồ trước máy truyền hình xem những loại phim dài dòng nhiều tập, và ông không nghĩ rằng truyền hình có thể thay thế được thú đọc sách. Đọc sách một mình, tha hồ thả hồn trên từng trang giấy, hòa mình với những nhân vật ly kỳ quái đản, với những tình tiết éo le, gay cấn. Gặp chỗ rắc rối, phức tạp thì gấp sách lại ngẫm nghĩ, thời gian và không gian trong truyện sẽ kiên nhẫn chờ đợi. Những phương tiện giải trí khác đâu có cho phép người thưởng thức cái tự do đó.
Nhưng ông không đọc sách tiếng Việt. Có lẽ hồi bé còn cắp sách đến trường, một mặt ông kém môn Việt văn, mặt khác ông cảm thấy những giờ Việt văn vừa khô khan, vừa vô bổ, vừa khó khăn. Đa số bạn học cùng lớp cũng có ý nghĩ như thế, kể cả những bạn có khiếu văn chương. Tại sao? Ông cho rằng tại vì những người phụ trách soạn chương trình không nắm được trình độ học sinh, không nghiên cứu kỹ giáo trình. Mới 11 tuổi vào năm cuối bậc tiểu học, học trò đã phải làm những bài “nghị luận luân lý”. Chẳng hạn trò hãy giải thích và bình luận câu cách ngôn: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.” Khó quá, đành nộp bài như thế này: “Câu cách ngôn đó rất đúng. Bầu thì tròn, ống thì dài.” Để bị ăn “trứng vịt” và bị thầy bắt quỳ trước bảng đen với lý do nghịch ngợm, phá phách, cứng đầu, hỗn láo.
Lên trung học, vẫn không khá về môn Việt văn. Học giảng văn thì chỉ đoạn văn nào, đoạn thơ nào được thầy giảng giải ông mới có thể hiểu lõm bõm. Chỉ được nghe một chiều, thiếu hẳn phần gợi ý, thảo luận, thuyết trình. Gặp đoạn nào chưa được giảng lấy từ môt tác phẩm dài, ông xin “chào thua”ngay.
Ông còn nhớ lần vào vấn đáp môn Việt Văn thi tú tài một, giáo sư hỏi vấn đáp bảo giải thích câu, “Lạ gì bỉ sắc tư phong.” Ông bí. Đó chỉ mới là câu thứ năm trong số hơn 3000 câu trong cuốn Truyện Kiều. Từ đó ông sợ Nguyễn Du.
Về môn Hán Văn, được đánh giá có mục đích bồi bổ cho môn Việt văn, ông lại còn tệ hơn nữa. Những bài thơ chữ Hán bốn câu bảy chữ, hoặc tám câu bảy chữ, ông học thuộc lòng dễ dàng từ cách viết đến ý nghĩa. Thầy gọi lên bảng viết lại bài thơ, không sai nét nào, được điểm cao, dù không biết phải viết nét nào trước, nét nào sau. Nhưng ngay sau khi trả bài xong, cách viết, nét chữ cũng giã từ ông luôn. Một năm học được mươi bài thơ Đường, học xong quên chữ, chỉ nhớ lõm bõm ý nghĩa. Cho nên khi tình cờ gặp lại những bài thơ chữ Hán đã học vẫn thấy lạ hơn quen, đọc không ra, nói gì đến chữ mới. Mỗi tuần một giờ chữ Hán biến thành giờ đùa nghịch, giải trí.
Sau này ra đời, gặp lúc loạn ly, ông càng không quan tâm đến các loại văn thơ, tiểu thuyết. “Sách vở ích gì cho buổi ấy“, ông tâm đắc câu thơ ấy của một nhà thơ xưa cũng sống vào thời tao loạn. Rồi xa quê hương, càng không có cơ hội làm quen với sách tiếng Việt. Nhưng thỉnh thoảng, thường là do tình cờ, ông nghe tiếng tăm lớn của cuốn Truyện Kiều trên đài phát thanh hay trên báo chí tiếng Việt. Vì thế có lần ông tò mò đọc lại, đọc vội cho biết cốt truyện ra sao, hiểu rất lơ mơ, và kết luận rằng Truyện Kiều cũng xoàng xoàng thế thôi, không hiểu tại sao người ta ưa thổi phồng. Tuy thế, ông không nỡ vứt bỏ cuốn thơ “quốc hồn quốc túy” đó vào sọt rác. Trên mấy kệ sách khá hỗn tạp và bừa bãi của ông, cuốn Truyện Kiều mỏng mảnh đứng lạc lõng giữa những cuốn sách dày cộm như Apocalypse Watch của Robert Ludlum, If Tomorrow Comes của Sidney Sheldon, 24 Hours của Greg Iles, v.v…
Gần đây, sau chuyến về Việt Nam, ông mang cái mặc cảm yếu kém về những gì liên quan đến quá khứ, đến phong tục tập quán, đến văn hoá Việt Nam nói chung. Muốn vượt thoát khỏi cái mặc cảm ấy, muốn tìm thấy một phần nào gốc gác chính của mình, ông nghĩ một cách đơn giản rằng trước hết mình phải chịu khó tìm đọc sách báo tiếng Việt, nhất là những sách về lịch sử, địa lý. Rồi đọc lan man qua vài tác phẩm văn học, vài áng thơ cổ điển, và một ít thơ dịch từ thơ Đường.
Những sách cổ văn, tân văn cơ bản mà ông từng làm quen tại nhà trường thời trung học qua những trích đoạn ngắn ngủi, ông cũng tìm đọc lại. Dần dần ông thấy thích mấy bài thơ nôm của Nguyễn Khuyến, của Hồ xuân Hương, mấy đoạn trong Chinh Phụ Ngâm, dăm ba tác giả Thơ Mới. Về văn xuôi, ông không thích bằng. Rồi ông lân la trở lại với Truyện Kiều.
Trở lại với Nguyễn Du, ông không đọc vội nữa. Ông nghiền ngẫm, đọc kỹ, và đọc tất cả các chú thích để có thể hiểu hơn về tác phẩm lớn đó. Ông gặp nhiều điều mà trước kia ông không để ý đến, hoặc hiểu lầm, hiểu sai.
Cuốn sách mỏng mảnh như thế mà cũng đã trình bày được sự đa dạng và phức tạp của cuộc sống đấy chứ, ông thầm bảo. Số phận của con người cũng có khi vô cùng bi đát. Những cái phi lý, mâu thuẫn, xung đột cũng khá dữ dội. Tuy thế, cõi người ta trong Truyện Kiều, theo ông, vẫn không thể so sánh với những gì đã xẩy ra trong vòng mấy mươi năm nay trên đất nước Việt Nam đầy tai ương này.
Ông cũng nhận ra rằng ngôn ngữ Nguyễn Du tài hoa, tinh anh, bí nhiệm hơn những gì ông tưởng trước kia. Có nhiều câu, nhiều chữ ý nghĩa mông lung, mang theo những thách thức, những dư âm, dư ảnh, dư vang ông không tài nào hiểu thấu dù ông cảm thấy hay quá. Từ đó càng ngày ông càng chú tâm đọc Truyện Kiều.
Thi thúc giục ông làm nhanh các thủ tục bảo lãnh để cô có thể đi Mỹ càng sớm càng tốt. Làm đám cưới giả. Ông bỗng nghĩ đến một câu thơ trong Truyện Kiều, lúc nàng Kiều lên đường về nhà chồng: “Tinh kỳ giục giã đã mong độ về”. Tinh kỳ giục giã nghĩa là gì? Rồi ông liên tưởng đến mấy câu thơ dịch từ bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị, trong đó cũng có hai chữ tinh kỳ:
Gió thổi tơi bời cát bụi bay
Đường lên Kiếm Các lượn theo mây
Nga Mi núi vắng người qua đó
Tinh kỳ nhạt thếch mặt trời phai
Hai chữ “tinh kỳ” trong tinh kỳ giục giã, và tinh kỳ nhạt thếch hẳn có cùng một nghĩa là lá cờ chăng? Nếu thế, đám cưới đưa nàng Kiều về nhà chồng Mã Giám Sinh dù sao cũng thật long trọng, có cả cờ xí rập rình đi theo? Nhưng đoàn quân trẩy trong thơ Bạch Cư Dị thì buồn quá, ông ngẫm nghĩ. Sau khi ép người đẹp chết trước vó câu cho hả cơn giận, cho thoả mãn thú tính, đoàn quân ủ rũ tiếp tục kéo lê trên con đường dài, cờ quạt nhạt nhòa dưới ánh mặt trời phai. Còn Thi? Thi thì khác nhé, sẽ được đưa đón trọng thể.
Từ khi ông dọn về vùng có nhiều người Việt Nam cư trú này, thật ra do công việc đòi hỏi chứ không phải do chính ông chọn lựa, ông có thêm vài suy nghĩ. Vùng này có nhiều sắc dân thiểu số trong đó cộng đồng Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể. Căn cước của người mình dần dần được xác định. Nhìn những bản hiệu viết bằng tiếng Việt Nam tràn ngập phố phường, thấy những bà già đội nón lá bước lên xe buýt, những ông già ngồi đánh cờ tướng bên vỉa hè, ngắm những cô gái mặc áo dài vào dịp lễ lạc, nghe tiếng Việt trên đài phát thanh, trên đường phố, ăn những món ăn quê hương, đôi lúc ông có cảm tưởng rằng ông đang sống tại quê nhà trong một thành phố quen thuộc nào đó. Dù chỉ là những cảm tưởng loáng thoáng, mơ hồ.
Vốn mệt mỏi và chán nản trước thời cuộc, nhất là mang tâm trạng nghi ngờ mọi thứ, ông không quan tâm đến những hoạt động liên quan đến chính trị của đất nước đã mở rộng vòng tay đón người tỵ nạn, trong đó có cộng đồng Việt Nam. Ông chọn thái độ co cụm và ích kỷ — chờ xem. Mình còn phải lo việc riêng của mình, trước mắt là phải gấp rút lo liệu cho đứa con của Thủy được qua đây nhanh chóng.
Trước kia, ông định bụng trích ra một số tiền kha khá gởi về cho Thi. Nhưng nghĩ lại, ông nhận thấy dù Thi có tiền trong tay, cuộc sống của nó cũng không thay đổi được bao nhiêu. Còn nhỏ tuổi, sống một mình không bà con quen biết, lặn lội trong một xã hội xô bồ, lừa đảo, không có ngày mai, liệu Thi có thể nào làm lại cuộc đời. Liệu nó có biết sử dụng một cách đúng đắn một số tiền lớn trong tay?
Nhưng sử dụng như thế nào thì gọi là đúng đắn? Xài dần dần, đừng hoang phí? Cũng có ngày hết. Cho vay ăn lãi? Dễ bị quỵt. Bỏ tiền vào quỹ tiết kiệm trong ngân hàng để lấy lời? Ngân hàng không đáng tin cậy, lại nữa, đồng tiền mau mất giá. Mua vàng tích trữ chờ thời cơ? Biết chờ đến bao giờ thời cơ mới đến? Hay đầu tư? Nó biết gì mà đầu tư. Mà làm sao đầu tư trong một đất nước không có một hệ thống pháp luật độc lập để có thể đảm bảo quyền lợi của mỗi công dân. Hay dùng số tiền như món hồi môn mong nó kiếm được một tấm chồng đàng hoàng có thể trông cậy suốt đời? Tấm chồng đàng hoàng do ai giới thiệu cho, kiếm ở đâu ra, không khéo “tiền mất tật mang”. Ông không thấy giải pháp nào tốt đẹp cả.
Rốt cục ông thừa nhận rằng ý kiến của cô bé “trong lúc bốc đồng” thế mà thích đáng hơn cả: làm lễ cưới giả để nó có thể đi Mỹ sớm, rồi mọi chuyện khác sẽ tính sau. Nghĩ như thế, ông bèn viết thư cho Thi biết ông sẽ làm theo lời đề nghị của Thi. Nhưng ông vẫn lo lắng không biết phản ứng của cô này sẽ như thế nào. Có thể trong lúc bồng bột nó buột miệng nói ra thế thôi, nào chú là người thân độc nhất còn lại, nào chú ở đâu, cháu ở đó. Rồi mình vội vàng vồ lấy những câu nói bốc đồng đó. Không khéo bẽ mặt.
Thi còn trẻ quá, đẹp quá, lại là con gái của Thủy. Có cái gì lấn cấn trong quyết định của mình hay không, ông băn khoăn.
Sau đó không lâu, ông nhận được phúc đáp của Thi, những lá thư giục giã, dồn dập, hết cái này đến cái khác, mỗi tuần. Đọc những lá thư ấy ông nghe như có những chuỗi cười trong veo của cô bé ngân vang như không bao giờ dứt.
“Chú nghĩ gì mà thừ người ra như thế?”
Ông hơi giật mình quay lại nhìn Thi. Cô gái có lẽ đã đứng đó quan sát ông từ bao giờ, nhìn lại ông, nở một nụ cười lặng lẽ. Thỉnh thoảng cô cười lặng lẽ, một nét mới nơi cô gái lạ lùng này. Thông thường thì Thi vẫn cười ròn rã từng chuỗi dài như xưa. Những nét mới khác nơi cô cứ theo thời gian xuất hiện dần. Như đoá hoa hàm tiếu từ từ nở trong nắng xuân.
“Chú nghĩ gì mà thừ người ra như thế ?” Thi lặp lại câu hỏi, đầu hơi nghiêng qua bên vai để cho mái tóc dài rủ xuống một phần ngực. Cái nhìn của ông vô tình đậu lên trên đó trong một khoảnh khắc rất ngắn trước khi ông vội đưa mắt nhìn ra cửa sổ và trả lời:
“Chú đang nghĩ đến mấy câu thơ trong cuốn Kiều.”
“Ô, chú của cháu thi sĩ quá!”
“Chú mà thi sĩ cái gì! Chẳng qua là chú nhớ đến những lá thư của Thi mấy tháng trước bay về như những cánh bươm bướm. Dồn dập, giục giã. Thi biết không, cuộc sống lâu nay đang yên ổn của chú bỗng nhiên bị khuấy động lên như, như…”
“Như nước vỡ bờ.”
“Đúng vậy.”
“Nghĩa là bây giờ chú đang trách cháu?”
“Không, thế là Thi không hiểu gì hết. Phải nói ngược lại mới đúng.”
Cô gái cười tươi như hoa:
“Thiệt vậy sao! Cháu sung sướng quá. Nhưng, còn điều này nữa, chú có nói chú đang nghĩ đến những câu thơ gì gì đó. Như thế nghĩa là làm sao?”
“À, tinh kỳ giục giã…”
“Là cái gì?”
“Là những lá thư Thi gởi đó mà. Nó có khác gì những lá cờ ra trận thúc quân, những lá cờ giục giã Thi về với chú.”
Về sau ông mới biết ông đã hiểu sai hai chữ “tinh kỳ”. “Tinh kỳ” trong câu thơ ấy của Truyện Kiều hoàn toàn khác “tinh kỳ” trong Trường Hận Ca. Và ông tự nhủ mình phải hết sức thận trọng khi đọc lại Truyện Kiều.
Cô gái vừa tắm xong, tóc xõa ướt lấm tấm hai bờ vai áo, những chấm ướt làm lộ rõ màu da trắng hồng trông giống màu cánh hoa sen vừa hé nụ.
“Thi không dùng máy sấy tóc?”
“Không. Cái thú của cháu là sau khi tắm xong, nếu không phải đi đâu gấp, cứ để cho tóc khô dần. Có chút nắng và gió ngoài vườn càng tốt. Có lẽ nhờ vậy mà tóc của cháu… chú coi này.”
Nói xong Thi vân vê những sợi tóc dài và nhỏ như sợi tơ.
“Chú nghĩ rằng tóc cháu nhuộm hơi vàng rồi. Để cho nó nâu đen và hoe lên một chút có lẽ đẹp hơn. Không khéo với mái tóc vàng như thế cháu biến thành cô gái Mỹ trắng mất.”
Thi nheo mắt, cười thật duyên, rồi lẩm nhẩm hát:
“Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Nhớ em chín đỏ trái sầu…
Ông khẽ hỏi:
“Nhạc ai thế?”
“Nhạc Phạm Duy. Và lời? Có lẽ Phạm Duy phổ nhạc cho một bài thơ nào đó mà cháu không nhớ tác giả.”
Thi cũng nói rất khẽ như chỉ để cho một mình cô nghe:
“Nhưng mà chú ơi, còn lâu. Con gái Việt Nam khác Mỹ nhiều lắm, chứ đâu phải vì mái tóc đen mà thôi. Còn cái mặt này, còn con mắt này, còn thân hình này. A, độ này cháu có gầy đi đấy, xuống được bốn pounds. Nhưng dù sao, dù sao… dù sao nhé, cháu cũng cám ơn chú đã nghĩ đến tóc cháu.”
Ông nhớ có một lần ông nói với cô bé rằng người ta thường dùng chữ dù sao một cách bừa bãi khiến cho ý nghĩa của nó bị lệch lạc. Bây giờ Thi lại cố nhấn mạnh hai tiếng đó. Cô bé này không vô tâm chút nào.
Chỉ sau hơn sáu tháng làm xong các thủ tục giấy tờ, ông đã trở về Việt Nam để đem Thi qua đây theo diện vợ chồng đoàn tụ. Hiện Thi đang sống chung với ông trong một ngôi nhà xinh xắn.
Nhà ông nằm trong một thị trấn khá yên tĩnh, không xa trung tâm cộng đồng Việt Nam là bao nhiêu. Đó là một ngôi nhà hai tầng, hai phòng ngủ, một phòng chứa dụng cụ, một cái den, phòng khách khá rộng, phòng ăn và nhà bếp khang trang, nhà xe có thể chứa hai chiếc xe du lịch mà vẫn còn nhiều chỗ dùng để kê mấy cái kệ lớn và cao đến trần nhà.
Sau lưng nhà là một khoảnh vườn nhỏ trồng nhiều loại hoa, nhiều nhất là hoa hồng. Có cả mươi thứ cây ăn trái như lê, táo tây, táo tàu, hồng giòn, hồng mềm, chanh vỏ mỏng, cam, mãn cầu, đặc biệt là một cây ổi cao chưa tới đầu người mà nặng trĩu những quả và quả, phải có cây chống để cành khỏi gãy, và một cây bưởi khá to mỗi năm hai ba mùa nở hoa trắng tinh khiết thơm lừng. Cứ đến mùa hoa bưởi nở, mùi thơm lan ra xa, những người láng giềng đến chỉ trỏ, trầm trồ. Ông đang cố gầy một cây khế chua.
Ông nhớ hồi bé, khu vườn của bố mẹ có nhiều loại cây ăn trái, nhưng đặc biệt là mấy cây khế chua trổ những chùm hoa tím rất nhỏ, rất đẹp chen trong những ngọn lá xanh cũng nho nhỏ, thon thon, và tỏa ra mùi thơm xa xôi, mơ hồ như có như không. Rồi khế chín, những trái khế vàng mọng nước treo lủng lẳng trong cành lá xanh um trông như những chiếc lồng đèn tí hon, thì chim keo, chim két cánh xanh lục như màu cánh chim bói cá, mỏ quặp như mỏ chim ưng, không biết từ đâu bay về thật nhiều. Chúng nó thích mổ trái khế ra lấy hột ra ăn.
Ông dành cho Thi một phòng. Từ phòng khách lên thang lầu rồi đi thẳng sẽ đến phòng chứa đầy sách vở, các dụng cụ thể thao và các đồ lặt vặt khác, rồi đến một cái den kín đáo, ấm cúng mà ông thỉnh thoảng đến ngồi đọc sách hay chơi bài với bạn bè. Rẽ qua trái là đến phòng cô gái, rẽ qua phải là phòng của ông. Phòng của cô gái trước kia là phòng của ông, cái phòng tiện nghi nhất, cửa sổ nhìn xuống mảnh vườn nhỏ, nhìn xa sẽ thấy vùng Irvine mênh mông. Nơi này là những khu kỹ nghệ lớn lao, ống khói nhà máy dàn thành những hàng dài, nơi kia là những vườn cam, vườn dâu tây, vườn táo trông mát mắt, nơi nọ là những ngọn đồi thấp cây lá xanh tươi và đồng bằng đang khai phá…
Cái phòng mà hiện giờ ông ở, trước kia để trống, bạn bè đến chơi ở lại tại đó.
Nhận phòng xong, khi ông trao chìa khóa, Thi nói ngay:
“Cháu không cần chìa khoá đâu.”
“Sao vậy?”
“Thì cháu giữ chìa khóa làm gì? Trong nhà chỉ có chú và cháu thôi, đâu sợ ăn trộm! Mà cũng vì như thế này nữa, cháu hay quên lắm. Hồi còn ở Việt Nam nơi cái chòi bé tí tại quận ba Sài Gòn nơi chú nhiều lần tới chơi đó mà, nhiều hôm cháu để quên chìa khóa bên trong lại bấm khóa bên ngoài. Mà ghét cái bản mặt mụ chủ nhà, cháu không thèm mượn chìa khoá để mở cửa.”
“Thì làm sao vào nhà?”
“Cần gì vào nhà. Cháu tới nhà con bạn ngủ qua đêm.”
“Rồi ngày hôm sau thì sao? Đằng nào Thi cũng phải về nhà chứ.”
Cô gái hơi chau mày, đáp:
“Thì qua mượn chìa khóa nơi bà chủ nhà. Mượn vào buổi sáng, buổi trưa thì không sao. Buổi tối đi về trễ đập cửa nhà bà ngại lắm. Ô nhưng nhắc làm gì cái chuyện cũ lôi thôi đó hả chú. Cho nên bây giờ cháu không cần chìa khóa, lỡ bỏ quên, lỡ làm mất. Chú cứ giữ giùm cho cháu đi.”
Ông suy nghĩ Thi nó đã không khóa phòng của nó lại, mà mình đi đâu cũng khóa cửa cẩn thận, như thế coi cũng chướng, cho nên ông để cửa khép hờ ngày cũng như đêm. Tuy nhiên, ông giữ ý không bao giờ bước qua phòng của Thi.
Cô bé Thi, trái lại, rất hồn nhiên và vô tư, chạy qua phòng ông bất cứ lúc nào cô thích.
Ông ngẫm nghĩ. Mới hơn sáu tháng mà Thi đã đổi khác một cách lạ lùng. Từ một cô gái chán chường, hằn học, lừa lọc, láu cá, nay đã trở thành một thiếu nữ tươi tắn, đài các, cao sang, và yêu đời. Lời ăn tiếng nói cũng bớt đi phần nào tính cách thô lỗ, tục tằn. Nhưng ông vẫn chưa yên tâm, vẫn sợ rằng mình sẽ thất vọng, vẫn sợ rằng những thay đổi nơi Thi chỉ là bề ngoài và nhất thời. Rồi đâu lại vào đấy, ngựa sẽ quen đường cũ, Thi sẽ lại là một Thi dạn dày, quỷ quyệt.
Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, tiếp xúc nhau thường xuyên, người ta không thể đóng kịch với nhau mãi được. Cái sân khấu sớm muộn gì cũng phải hạ màn, mặt nạ sớm muộn gì cũng rớt xuống. Thế thì thời gian sáu tháng để thử thách như thế đã đủ chưa? Nếu sống xa nhau, trong khoảng thời gian đó, người ta còn có thể dễ dàng đánh lừa nhau trong cách cư xử, giao tiếp. Ông với Thi thì khác hẳn, gặp nhau hằng ngày, hằng giờ.
Ông gặp Thi cả những lúc cô chưa trang điểm buổi sáng sớm, tóc tai lơ là, đôi mắt có khi còn ngái ngủ, môi, má chưa son phấn, áo quần ngủ có khi bèo nhèo, hở hang che lấy thân hình bừng bừng như mặt trời đang lên. Ông gặp Thi cả trước khi cô sửa soạn đi ngủ, cô bé không bao giờ quên chạy vội qua phòng ông níu lấy hai vai ông, đè nhè nhẹ xuống, chú ơi, ngủ ngon nhé. Ông nhìn Thi ăn, uống, có khi ăn xong Thi nở nụ cười và đưa mặt tới để chú xem có còn dính chút rau thơm, hành lá xanh nào trên kẽ răng của cháu không. Ông nhìn hai cánh tay trần thuôn thả của Thi, ngắm bàn tay ngón dài, thon, nhanh nhẹn rửa chén bát, hoặc xếp gọn áo quần vừa mới lấy ra từ máy giặt, máy sấy, hoặc là, ủi, hoặc bưng tách cà phê, rót tách trà mang đến cho ông. Ông nghe cả mùi hương con gái rất gần nơi Thi mỗi lần cô hạ cửa kính xe cho gió tạt vào, chú ơi để chú hít gió biển nghe chú, để có thể tìm lại cái mùi gây gây, ngai ngái, nhưng sao biển này không có cái mùi đó như ở Vũng Tàu, hay Phan Thiết, hay Nha Trang hả chú, khi ông rất thường lái xe đưa cô dọc theo bờ biển buổi chiều cuối tuần trước khi kéo nhau vào một quán ăn nào đó.
Ông đoán rằng những bãi biển vùng này sạch sẽ quá, ít có rong biển phơi mình trên cát, lại không có những làng đánh cá, những vựa làm nước mắm quanh đấy, cho nên thiếu vắng mùi biển quen thuộc.
Tại những thành phố xúm xít thuộc quận Cam này có rất nhiều quán ăn Việt Nam. Vào cuối tuần và thỉnh thoảng những buổi tối trong tuần, ông đưa Thi đi ăn tại nhiều quán. Tốn kém không là bao, lại đỡ mất thì giờ đi chợ, nấu nướng. Để đổi món, họ cũng thường đến những tiệm ăn Tàu, Nhật, Đại Hàn, Thái Lan. Thi chưa quen những món ăn Tây, Mỹ, Mễ.
Trong những tháng đầu tiên, cô gái rất thích được đi ăn ngoài, nhưng về sau Thi bảo cháu nhớ cơm nhà lắm, ăn cơm tiệm hoài đâm chán, mà cháu nấu ăn cũng không tệ đâu. Thế là những cuối tuần sau đó, ông và cô gái đi chợ Việt Nam mua những món Thi chọn lựa. Mang về ông giúp Thi gọt củ cà rốt, củ khoai tây, xắt trái cà chua, trái dưa chuột thành lát mỏng, lặt mớ rau muống, rau dền, rau thơm, giả củ hành, củ tỏi… trong khi cô gái bật lò ga, bắt nồi, bắt chảo, nấu cơm, nấu canh, chiên, xào… Cũng vui.
“Thi coi kìa, soong cá nục đang cháy đó kìa.”
“Hả? Cá cháy chứ có phải chú cháy đâu mà sợ!”
Nói xong cô gái chạy đến lò ga vặn bớt lửa. Cô gái chạy nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như con sóc.
Ông nói với cô gái rằng thức ăn làm tại nhà ngon hơn ở tiệm. Được thể Thi đòi ông phải dành một khu đất nho nhỏ trong vườn, nơi có đủ nắng, đủ gió, để trồng rau. Theo ý cô gái, cái vườn mà chỉ có hoa thôi trông buồn và lạnh lắm. Vườn hoa công cộng thì được, để du khách ghé qua thay đổi không khí, thưởng thức hương hoa, hoặc nghỉ ngơi chốc lát. Vườn nhà phải khác. Ngoài bông hoa để thơm, để đẹp, cái vườn nhà còn phải mang cái vẻ ấm cúng, no đủ, nghĩa là phải có cây ăn trái, nhưng tốt hơn hết là phải có một ít rau quả như bầu, bí, mướp, rau lang, cà chua, rau thơm, rau húng, cây ớt, bụi sả v.v.
Ông đồng ý. Thế là ông đi mua hạt giống, hoặc cây ương. Ông không có kinh nghiệm trồng rau, săn sóc rau. Mấy bụi sả lèo tèo xơ xác, rau răm chết lên chết xuống, cây hành lá vàng vọt, rau húng, rau thơm mọc thưa thớt, lá nhiều lúc bị cháy queo, cây tía tô èo uột bị sâu khoét thành nhiều lỗ.
Nhưng Thi bảo không sao, dần dần nó sẽ tốt lên nếu chú chịu khó xới đất, tưới nước, thêm phân bón, và dùng thuốc xịt sâu bọ. Cháu sẽ giúp chú một tay nhé. Chỉ có mấy cây ớt trong chậu kiểng là sai trái.
Thế mà thật lạ lùng, và đó là điều làm cho ông thích nhất, tô canh cá chim vàng đang bốc khói mà Thi vừa dọn lên bàn chờ hai người ăn thì cô gái bảo khoan ăn đã chú, rồi cô chạy vội ra ngoài vườn tối mờ mờ dưới ánh đèn điện, vụt một cái cô đã chạy vào, hai chân thoăn thoắt, lại chạy vội đến vòi nước rửa, rồi chớp mắt một cái, cô đã cầm con dao nhỏ, một tay nắm dao, hoặc kéo, một tay nắm mấy cọng hành lá xắt nhỏ cho vào tô canh. Ăn vào mùi vị quả đậm đà lên hẳn.
Cô bảo chú này, tô canh mà không có hành lá xanh tươi rắc vào trông nó vô duyên lắm. Nghĩa là phải ăn bằng mắt nữa. Hoặc đĩa thịt gà bóp tiêu muối trông thật ngon lành đối với ông, nhưng cô gái cũng bảo chờ rồi chạy nhanh ra “vườn rau” kiếm thêm năm bảy ngọn rau răm hoặc lá chanh non xắt thành sợi dài nhỏ trộn vào. Ông không ngờ Thi lại có thể tìm kiếm được nhiều thứ “diệu dụng” trong cái “vườn rau” thổ tả đó.
Thường thường, sau những bữa ăn tối nóng sốt, ngon lành, cô gái dành phần rửa chén, ông lau bàn. Rồi Thi pha trà, ông lật vội tờ báo hàng ngày hoặc lấy sách ra đọc. Và Thi học bài của nhà trường. Hoặc có khi cao hứng Thi kể cho ông nghe những chuyện xẩy ra trong ngày. Thôi thì đủ thứ chuyện.
“Anh dạy lái xe tử tế quá. Anh bảo những người khác thì phải trả anh 600 đô, mà anh không bảo đảm lái trên free way. Đặc biệt cho cháu chỉ lấy một nửa thôi. Thi đậu xong mới trả tiền. Chú thấy không, người ta tử tế với cháu lắm chứ không phải lơ đãng như chú đâu.”
“Cháu học ESL rất tiến bộ, và vui nữa. Khác hẳn lúc còn ở đảo. Anh chàng người Ukraine đã có vợ mà cứ mang sô cô la Nga cho cháu, vợ nó xạu cái mặt, cháu thấy tội nghiệp, sau nhất định không nhận quà của nó nữa. Còn anh chàng người Cu – ba thì như người mất hồn, cứ nhìn sửng cháu quên cả trả lời cô giáo, khiến cả lớp cười ồ, cô giáo khó chịu ra mặt.”
“Ông H.O. vợ chết hay vợ bỏ gì đó già khú đế thì lại luôn luôn làm kỳ đà cản mũi. Ông răn dạy cháu đủ điều. Nè, tụi nó nguy hiểm lắm, cô mà tin chúng nó là chúng nó đưa vô rừng rồi làm đủ chuyện, rồi giết chết, chặt xác ra từng mảnh nhỏ chôn đi phi tang. Ngày nào cũng xẩy ra chuyện đó. Cháu nói ghê quá, thiệt không đó. Ổng bảo thì cứ nghe đài là biết liền. Cháu lại nói nghĩa là đừng tin ai cả, chỉ nên tin anh thôi hả. Cháu gọi ổng là chú, ổng không chịu, bảo phải gọi là anh. Trong khi ổng khuyên cháu đủ điều thì đứa con gái của ổng cùng học một lớp nửa chừng bỗng giở chứng bỏ ông đi xuyên bang. Tụi nó đồn con nhỏ đó mới 16 tuổi xui xẻo mang cái bầu ngượng quá không dám vô lớp học nữa.”
“Nhưng cái bà chủ tiệm cà phê Karaoke mới rắc rối quá chừng. Cứ năn nỉ ỉ ôi với cháu hoài, dai hơn đỉa đói. Cứ dụ cháu đi làm kiếm thêm tiền mà xài cho sướng cái đời, làm nghề này kiếm tiền lẹ lắm. Cháu hỏi nghề gì, bà nói bà sẽ cho biết sau. Rồi mở quỹ tiết kiệm riêng đừng cho chú biết. Bà nói dễ lắm. Trước hết hãy ghi danh học lớp ESL buổi tối. Tan lớp, khoảng 10 giờ bà chở đến quán của bà là vừa. Là bà chủ nhưng thật ra còn trẻ lắm, hơn cháu năm ba tuổi là cùng. Tới quán cà phê của bà là an toàn nhất, và khỏe ru, khỏi cần huấn luyện, khỏi học điền đơn, khỏi tập làm resumé, khỏi tập trả lời những câu phỏng vấn mẫu gì ráo trọi. Chỉ việc bưng ly cà phê đến cho khách, rồi ngồi cạnh nói chuyện “tình cảm” thôi. Khỏi phải nắm tay bắt chân gì cả. Nắm tay có tiền nắm tay… tùy mình. Nhưng phải đề phòng mấy con bạn cùng làm. Bà kể lại lúc bà còn chạy bàn, nghĩa là lúc bả chưa làm chủ, một hôm ế ẩm ngồi hoài không biết làm gì, tụi nó và bả lấy rượu mạnh ra uống, rồi say, bả cũng say, rồi ôm nhau nhảy đầm tía lia, rồi hai ba đứa đè ngửa bả ra hôn vào mồm, sờ soạng lung tung, làm bà giật mình tỉnh rượu. Bà ghê quá. Bả nói đàn ông hôn thì không sao, chứ tụi nó hôn bà thấy gớm ghiếc nhợn cả người. Bà chạy ra sau nhà tắm lấy bàn chải đánh răng liên tiếp ba bốn lần vẫn thấy buồn mửa.”
Vân, vân…
Ông ngồi chăm chú nghe, ít khi đưa ý kiến. Cứ thế, sau bữa ăn tối, đã thành cái lệ, nếu hai người không lên xe đi một vòng dạo mát, Thi học bài, nhờ ông chỉ bài, hoặc kể chuyện trong ngày cho ông nghe.
Thoạt đầu ông chỉ chỉ dẫn thêm tiếng Anh mà thôi, về sau Thi nảy ra cái ý ghi danh học Đại Học Cộng Đồng dành cho người lớn. Ông ngạc nhiên, Thi giải thích:
“Có mấy đứa học ESL chung với cháu ngu lắm mà cũng đi học thêm cô lẹt như thường. Học để kiếm học bổng có tiền thêm mà xài.”
Ông giải thích:
“Học kém thì làm sao có học bổng! Cái đó gọi là trợ cấp tài chánh để có tiền đi học chứ không phải học bổng. Financial Aid đó mà, ai cũng có thể có miễn là đi học đủ giờ và đừng kém lắm là được”.
Thi rất ngạc nhiên:
“Vậy hả chú? Chú làm cháu nhớ hồi còn ở Việt Nam. Ai ai cũng nói mấy đứa con của tôi ở bên Mỹ học giỏi lắm, đứa nào cũng được học bổng! Thì ra… Nhưng cháu có chú thì cháu đi học cốt để, để thành tài chứ đâu phải nhắm vào phai phai gì đó.”
“Financial Aid.”
“Vâng, phai nen… “
Ông ngập ngừng hỏi:
“Cháu xong trung học ở Việt Nam chưa?”
“Xong chứ sao không xong!” Thi cười ròn. “Ở đây có ai biết ai đâu mà lo. Khi ghi danh vào lớp ESL, ở mục trình độ học vấn, cháu đánh đại vào ô có số 12. Như thế là coi như cháu đã xong trung học rồi. Được không? Thì sau đó phải lên học đại học chứ.”
Ông lại ngập ngừng:
“Nhưng thật ra cháu đã học hết lớp nào?”
“Chẳng hết lớp nào cả. Cháu chỉ học ba bốn năm đầu tiên ở đảo, bữa đực, bữa cái. Mấy năm sau dù mình muốn học cũng không được.”
“Sao vậy?”
“Thì mình đi biểu tình liên miên mà. Cháu cũng phải đi biểu tình với người ta chứ. Ai sao mình vậy. Người ta tranh đấu vì quyền lợi chung mà mình né tránh coi sao được cái con mắt. Biểu tình chống việc tống xuất người tỵ nạn trở về Việt Nam. Đã trốn được qua đến đảo đâu phải là chuyện dễ, nay lại phải trở về nước thì ai mà chịu. Có hai ba người giận quá, tự tử chết. Cho nên trường đóng cửa.”
Ông ngẫm nghĩ rồi hỏi tiếp:
“Ba bốn năm thì học được bao nhiêu, học những môn gì, và ai dạy hả cháu?”
“Cháu đã nói rồi chú có thèm nhớ đâu! Cháu đã kể cho chú nghe ít nhất là hai lần, một lần hồi còn ở Việt Nam, rồi qua đây… Mấy ông H.O. dạy chớ ai dạy nữa. Cũng có vài ông ở Cao Ủy…”
“Chú có nhớ chứ,” ông ngắt lời, “nhưng chú muốn hỏi thêm cho chắc. Cháu học xong cỡ lớp nào?”
“Cháu vừa nói đó chú à!” Cô gái tỏ vẻ sốt ruột. “Chẳng xong lớp nào cả. Mỗi ngày chỉ học mấy tiếng, ngày có ngày không, lại lười, lại bị kêu lên kêu xuống, lại đi biểu tình.”
“Phải kêu lên kêu xuống mới chịu đi biểu tình! Thi của chú tinh thần không cao như người ta!”
“Không phải vậy đâu, cái chú này! Kêu lên kêu xuống là chuyện khác.”
“Là chuyện gì vậy? Chú không hiểu.”
“Là Cao Ủy nó kêu.”
“Tại sao?”
Thi ngoảnh đi nơi khác, nghiêng mặt lườm lườm nhìn lại ông, nói tỉnh bơ:
“Tại vì cháu đẹp! Được không. Tụi nó hau háu như chó đói. Nhưng không làm gì được cháu đâu. Những đứa con gái khác, thôi, cháu không muốn nhắc đến chuyện cũ.”
Ông nổi tính tò mò, nhìn Thi mỉm cười và hỏi dồn:
“Thì cháu cứ nhắc chuyện cũ đi, không sao cả. Chú đang sẵn sàng nghe đây mà.”
“Hay chưa! Làm như chú sẵn sàng nghe là cháu phải có bổn phận thành thật khai báo hết thảy mọi chuyện trong đời. Ừ, thì học trò phải chiều lòng thầy vậy. Nhưng em kể xong chuyện này thì thầy phải hứa đưa em đi ghi danh cô lẹt nhé. Hứa đi thầy!”
“Vâng, hứa.”
“Tụi nó, thường là những đứa vượt biên một mình, không có gia đình đi kèm, tội lắm. Vì muốn đi định cư sớm, nghe lời bọn khốn nạn hứa hẹn, rồi tụi nó hành hạ đủ thứ. Nhiều đứa giấu nhẹm đi, nhưng con bạn của cháu kể lại hết cho cháu nghe… Chú có muốn nghe tiếp hay không?”
“Tùy cháu.”
“A, chú lại làm cao. Đã thế… cháu không kể nữa. Nhưng thôi, cháu mí mí ra một chút xíu thôi nhé. Tụi nó coi con người như con vật. Nó bắt lột áo lột quần ra, rồi đứng, ngồi, quỳ, nằm, hết cách này đến thế khác. Rồi… rồi bò nữa… cho tụi nó xem. Mấy thằng cùng nhau ngồi xem, cười rống lên như đồ điên, trước khi nó… Chú hiểu cháu nói gì chứ. Khổ lắm chú ơi. Nhiều người bị lắm.”
Ông thở dài:
“Dù sao… Là vì mình muốn đi sớm, cho nên tự ý đến với chúng nó. Nghĩa là có sự đồng thuận của hai bên…”
“Chú cứ thích nói nước đôi.” Thi ngắt lời. “Không, không phải vậy đâu. Hễ đứa nào vừa con mắt chúng nó là bị chúng nó tìm đủ mọi cách kéo ra khỏi trại. Gọi là trình diện để bổ túc giấy tờ, để khai báo linh tinh, hoặc “lý do cho biết sau”. Ban đêm chúng cũng gọi. Ít có người thoát khỏi tay chúng nó lắm. Trừ khi người nào có gia đình, mà gia đình đó phải là gia đình đàng hoàng, lì lợm… Chú hiểu cháu nói gì chứ. Cháu mà trúng số thế nào cháu cũng trở lại đảo để trả thù… cho mấy đứa bạn của cháu.”
Ông lắc đầu:
“Thôi, đừng tính chuyện trả thù nữa cháu. Tất cả các trại tỵ nạn bên đó đều đã dẹp tiệm rồi. Bây giờ là những hòn đảo hoang. Có nơi biến thành nhà tù hoặc trung tâm giải trí, hoặc trung tâm kỹ nghệ. Mà trả thù như thế nào? Bắn bỏ hả? Hay đưa chúng ra tòa hả? Con kiến kiện củ khoai!”
“Chú nói cái gì?”
“Chú muốn nói nghĩ lại cũng đáng giận, đáng căm thù thật. Nhưng mọi chuyện đều đã qua, rồi sẽ nguôi ngoai dần. Mọi chuyện rồi cũng sẽ tự nó giải quyết lấy.”
Thi có vẻ sốt ruột nói lằm bằm một mình:
“Mọi chuyện tự nó giải quyết!”
Ông châm thêm trà vào hai cái ly rồi tiếp tục câu chuyện:
“Mình trở lại đề tài cũ nhé. Cháu nghĩ đúng đó, cháu còn trẻ, tương lai còn nhiều, phải học. Hồi chú mới qua đây cũng học ngày học đêm. Chú xem nào, chú phải chỉ thêm vài môn khác ngoài tiếng Anh ra. Trước hết đi kiếm mua mấy cuốn sách toán…”
Thi trở nên vui hẳn lên, nói liến thoắng:
“Toán, lý, hóa – Tâu, lai, hâu! Phải rồi, chú dạy cháu Toán, Lý, Hóa trước cái đã. Những môn khác tính sau, có lẽ cũng không cần thiết. A, lịch sử, địa lý Mỹ cũng nên học, phải không chú?”
“Cháu nói đúng. Trước sau gì cháu cũng sẽ trở thành người Mỹ, thì cháu phải biết lịch sử và địa lý nước Mỹ, từ đó sẽ yêu qúy quê hương mới của mình nhiều hơn.”
“Nhưng tiếng Anh của cháu còn kém quá, chú cũng phải dạy đều đều nhe. Nhé, chú nhé. Ngoài ra, chú dạy thêm cho cháu những môn nào nữa hả chú? Rồi còn chấm bài, sửa bài cho cháu này. Bài nhà, bài cô lẹt này. Thế là một ngày nào đó cháu sẽ ra trường mang hia đội mão như ai. Chú sẽ đứng trong đám đông phụ huynh chụp hình lia lịa khi cháu lên lãnh bằng. Chú ơi, chú đi kiếm sách mua ngay đi. Ngày mai đi làm về chú ghé tiệm sách liền nhé. Cháu ở nhà làm cơm thật nóng, thật ngon, chờ chú. A, cháu có mua khô cá sặt tại chợ Việt Nam. Nướng lửa than hồng ăn cho ngon nghe chú.”
“Vâng. Nhưng cá sặt nướng ăn với cái chi?”
“Ăn với cơm vắt nóng. Mà chú hay quên lắm. Chú mà quên thì ngày nào cháu cũng réo, cũng giục cho chú coi.”
“Giục là cái gì?” ông vờ hỏi.
“Là hối đó, là push đó. Có một lần ông thầy người Việt mình dạy tiếng Anh muốn dịch chữ push mà cứ ậm ờ hoài. Cháu nói ngay push nghĩa là giục, thúc gịục, giục giã, ổng OK ngay. Hay ổng giả vờ thế?”
Ông không trả lời câu hỏi của Thi, lại thì thầm: “Tinh kỳ giục giã, đã mong độ về.”
“Cái gì vậy chú?”
“Không có cái gì cả.”
“Thế cháu đi làm thêm trà nghe!”
Nói xong Thi thoăn thoắt đi qua nhà bếp. Nhìn theo cô gái, ông buông tiếng thở dài.
Thế là mình cưới nó hơn nửa năm rồi, dù là cưới giả. Cũng y như Mã Giám Sinh! Không, có khác chứ. Mã Giám Sinh làm đám cưới thiệt nhưng với chủ tâm đánh lừa nàng Kiều, còn mình cưới giả để giúp Thi. Và Thi đã về đây như mong ước của cô ta. Nhưng tương lai sẽ ra sao đây? Thủy nhé, anh hứa sẽ bao bọc, che chở đứa con của em, mong nó nên người.
Hai câu thơ trong Kiều lại hiện lên trong đầu:
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã, đã mong độ về…
Hai câu thơ nghe rất vui. Người con gái thế là đã giải quyết xong việc nhà trước khi lên xe hoa đi lấy chồng. Tốt quá rồi, còn gì bằng nữa! Thế là thong dong rồi, thế là đã có thể trút bỏ được những hành trang nặng nề cũ rồi. Bây giờ chỉ còn sửa soạn gấp rút cho kịp giờ dẫn hôn, tinh kỳ giục giã, để mong sớm về nhà chồng.
Vâng, ông mới biết hai chữ “tinh kỳ” này không có nghĩa như “tinh kỳ” là lá cờ trong thơ của Bạch Cư Dị. Và mong độ về, chẳng khác gì Thi mong về đây, mong đi Mỹ làm lại cuộc đời.
Nhưng những câu thơ nghe rộn ràng, náo nức đó lại được dùng để báo hiệu cho những dòng bi thảm nhất, não nùng nhất trong hàng ngàn câu thơ đầy nước mắt.
(Còn tiếp)
bài đã đăng của Ngự Thuyết
- Một Xóm Đạo Ven Rừng - 04.11.2025
- con ếch - 23.09.2025
- cao bay xa chạy - 06.09.2025
- qua trung đông - 26.06.2025
- Bèo Mây - 04.04.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 11) - 14.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 10) - 10.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 9) - 08.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 8) - 03.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 6) - 26.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 5) - 24.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 4) - 19.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 3) - 17.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 2) - 13.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 1) - 10.12.2024
- kinh ngạc - 09.10.2024
- bỗng một hôm - 24.09.2024
- Bà Võ Phiến - 14.08.2024
- trống - 30.05.2024
- một thời hoang dã - 24.05.2024
- Câu Chuyện Của Nó - 16.05.2024
- Mẹ – tập truyện Ngự Thuyết - 29.11.2021
- Trở lại với "Đêm Qua Bắc Vàm Cống" và mấy bài thơ đầu đời của Tô Thùy Yên - 01.10.2019
- Đi - 26.08.2019
- ĐÊM QUA BẮC VÀM CỐNG - 06.06.2019
- ĐÊM - 07.05.2019
- ĐỒI XANH - 25.03.2019
- RỪNG - 13.02.2019
- Las Vegas 2019 Countdown - 14.01.2019
- MẸ - 02.11.2018
- Trận cuối - 30.04.2018
- Biệt Ly trong Thơ - 28.12.2017
- VỀ ĐÂU (kỳ 2/2) - 30.10.2017
- VỀ ĐÂU - kỳ 1/2 - 26.10.2017
- NGÔI NHÀ LÝ TƯỞNG - 31.07.2017
- THANH TÂM TUYỀN, NHÀ THƠ TIÊN PHONG - 15.12.2014
- MỐI TÌNH ĐẦU hay THỬ NHÌN LẠI “ĐÂY THÔN VỸ” của HÀN MẶC TỬ - 29.09.2014
- Thử đánh giá lại HỒN BƯỚM MƠ TIÊN của Khái Hưng - 11.08.2013
- Đi chợ - 02.02.2011
- Nước non ngàn dặm... - 27.12.2010
- Bắc hành - 02.08.2010
- Tuyển Tập Ngự Thuyết - 23.01.2010
- Bước thấp bước cao - 14.09.2009
- Tóc Trắng - 31.08.2009
- Thử Đọc Lại Ba Bài Thơ Cũ - 10.08.2009
- Nước dâng đầy - 06.08.2009
- Tự Do Ngôn Luận và Trách Nhiệm Người Viết - 08.05.2009
- Mẹ Biệt Ly - 20.01.2009