Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về…
Nguyễn Du (Truyện Kiều)
Toa xe lửa toa hạng ba. Ghế ngồi chật chội, không có số. Ông ngồi bên cạnh cửa sổ. Mấy ngọn đèn trần vừa được bật lên toả ánh sáng màu vàng nhợt nhạt. Bên ngoài trời tối dần mà trong toa xe không khí vẫn ngột ngạt và oi bức. Cũng may thỉnh thoảng có cơn gió nhẹ đều đều thổi tới. Ông đảo mắt nhìn quanh. Thì ra ở một góc toa đằng xa, một chiếc quạt máy cỡ lớn đang xoay xoay. Xe lửa hạng ba mà được như thế này thì cũng không đến nỗi nào, ông ngẫm nghĩ.
Ông nhớ lại lúc chia tay với anh tài xế.
“Chúng nó nhếch nhác quá!” anh tài xế nói một cách bực tức. “Tôi đâu ngờ câu chuyện lại xẩy ra như thế. Thôi, anh chịu khó đi hạng ba nhé. Phiền quá, anh lại phải ngủ ngồi suốt đêm. Mãi đến trưa ngày mai mới đến Huế nếu không có sự cố nào khác.”
“Không sao, không sao.”
“Tôi đã sắp đặt đâu vào đấy,” anh tài xế vẫn còn bực bội. “Thế mà cuối cùng lại bị chúng nó bắt chẹt. Biết thế tôi lấy vé tầu TN cho anh.”
“Tầu TN là…?”
“Đó là tầu Thống Nhất chạy từ Bắc vào Nam. Loại thường thôi, không được sạch sẽ, lại phải ghé nhiều ga nhỏ, cho nên hơi chậm. Nhưng còn hơn anh phải ngồi hạng ba tầu này. Chó thật!”
Thấy anh tài xế băn khoăn mãi, ông cười giả lả:
“Mình đến trễ, hết vé hạng giường nằm, hết cả vé hạng nhất, hạng nhì, thì đành phải đi hạng ba. Ai sao mình vậy, chịu thôi.”
“Không phải thế đâu,” anh tài xế gắt. “Tôi biết chúng nó còn khối vé mà không chịu chìa ra. Bắt chẹt mà. Thấy cái bộ vó ngoại kiều của anh chúng nó muốn khai thác. Mà cũng tại anh. Nếu anh dẹp cái thắt lưng đen đựng tiền quấn quanh bụng, thì anh với cái dáng xuềnh xoàng ấy cũng chẳng khác chúng tôi là bao.”
“Anh nói đúng, tôi vô ý lắm. Tôi sẽ tháo cái thắt lưng hãm tài này ngay sau khi tôi lên toa xe.”
“Tôi ghét chúng nó ở chỗ chúng thích tiền thì cứ nói thẳng đi. Sao lại cứ im ỉm, khinh khỉnh như ta đây không màng đến chuyện tiền bạc. Chúng nó muốn anh phải tự giác tự nguyện dâng tiền thêm cho chúng nó. Tốn thêm một ít tiền có lẽ anh cũng không nề hà, nhưng tôi ghét cái lối bắt chẹt đó lắm. Khổ nỗi bây giờ vé ghế mềm cũng không có.”
“Ghế mềm?”
“Cũng là ghế ngồi hạng ba nhưng có đệm. Chỗ tựa lưng cũng có đệm. Đỡ cho cái lưng, cái mông. Còn ghế này thì cứng trơ ra. Phải ngồi suốt đêm trên cái ghế này, ngày mai anh sẽ ê ẩm cả người. Tôi đã trải qua kinh nghiệm ấy. Tuổi mình lớn, chịu sao nổi.”
“Đã lỡ rồi thì đành vậy. Nhưng không sao, tôi có thể ráng chịu được. Không sao đâu. Vô gì nhỉ… vô tư mà.”
“Anh dùng sai chữ vô tư rồi!”
Ông nhớ lại mẩu đối thoại đó và nhớ nét mặt cau có và cái giọng nói qua kẽ răng của người tài xế. Ông trở lại với ý nghĩ rằng anh này đã chọn sai nghề.
Sau khi đến Hà Nam, anh tài xế tách khỏi con đường lớn, lái xe qua nhiều con đường nhỏ lát đá, rồi chạy trên con đường đất. Ở vài ba đoạn đường quá xấu, ông thấy có bảng ghi: Cấm xe trọng tải quá 5 tấn. Lạ nhỉ, ông lẩm bẩm. Sợ sập cầu mới dựng bảng cấm như thế, chứ sao cấm cả xe chạy trên đường bình thường. Cuối cùng xe đậu trước cổng một ngôi nhà ngói cũ kỹ, ba gian hai chái, bao quanh bởi một mảnh vườn khá khô cằn vì thiếu nước.
“Đây là nhà từ đường của họ tôi,” anh tài xế nói. “Tôi vào giao bức thư và giải quyết vài công việc lặt vặt trong vòng nửa giờ là xong. Mời anh vào nhà nghỉ ngơi, xơi nước.”
“Anh cứ tự nhiên. Tôi chờ ngoài này không sao. Tôi thích thế. Để nhìn trời, nhìn đất.”
“Tùy anh.”
Nói xong, anh tài xế đi vội vào nhà. Ông mở cánh cửa xe cho có gió vào, định ngả đầu dựa vào thành ghế chợp mắt một chốc. Suốt mấy hôm, đêm nào ông cũng nằm trằn trọc đến hai ba giờ sáng, và năm sáu giờ đã dậy, mắt cay sè, người có khi lâng lâng như đi hỏng chân. Nhưng ngay bây giờ thì nóng quá, không thể nào ngủ được, ông bước ra khỏi xe nhìn xa. Giữa đồng bằng mênh mông đột ngột nổi lên một ngọn núi khá cao, có lẽ cao gần bằng núi Bà Đen ở Tây Ninh.
Ngay trước mắt ông, xóm làng nghèo nàn, đồng ruộng cằn cỗi phơi mình dưới nắng hè gay gắt. Những nếp tranh tiều tụy nằm bên những lũy tre còm cõi, những lùm chuối rách rưới, những ao bèo héo hon, khô cạn. Dăm ba con vịt lông xám xơ xác rúc mỏ xuống những vũng nước bùn cạn queo, mấy con gà mái chuối gầy gò đi kiếm ăn quanh quẩn đụn rơm èo uột.
Cũng na ná như những làng quê miền Trung, nhưng trông khổ sở và buồn bã hơn nhiều. Trên con đường làng, có đoạn lát đá vụn, có đoạn đất thó, năm bảy người, đàn ông, đàn bà, kẻ mang dép nhựa, kẻ đi chân đất, đầu đội nón vải, nón lá, oằn mình gánh những gánh cát lẫn đá nặng trĩu, đòn gánh cong vòng như hình cách cung. Người dân quê bây giờ tuy có khác dân quê năm bảy mươi năm về trước, không còn mang tấm áo nâu, mảnh quần vá, không còn kéo cày thay trâu bò, nhưng có lẽ cũng không khá hơn là bao. Cuộc sống của dân quê còn quá lầm than, ông ngẫm nghĩ.
Bỗng ông nghe tiếng nói con gái đằng sau lưng:
“Sao bác không vào nhà nghỉ ngơi cho khỏe, mà lại đứng đây cho nắng nó thiêu đốt?”
Ông bật cười, quay nhìn. Một cô gái đang ngồi trên một chiếc xe đạp cũ từ bao giờ, một tay vói vịn một nhánh cây thấp, một tay giữ ghi đông xe, một chân đặt trên bàn đạp, chân kia chống đất. Trời nóng hừng hực. Chiếc áo chẽn sơ mi mỏng trên người cô gái ướt đẫm mồ hồi làm nổi lên lớp da hồng từng đám nhỏ. Ông ngẫm nghĩ thì ra bây giờ chữ “bác” được dùng thoải mái, không như trước kia chữ “bác” phải được độc quyền dùng để chỉ bác Hồ, mà đã nói đến bác Hồ thì phải nói cho đủ bộ, Bác Hồ vĩ đại.
Thoáng một chút ngạc nhiên, ông nhìn cô gái xinh xinh, vui vẻ trả lời:
“Chào cô. Tôi thích đứng ngoài này, thoáng hơn. Nhìn quanh quẩn cũng thấy lạ lạ, quen quen.”
Tự nhiên cô gái cười tít mắt như thể hai người đã quen biết nhau từ trước. Ông cho rằng gái quê vốn vui tính như thế. Ông cũng cảm thấy vui vui. Ông chỉ vào thân cây, hỏi vớ vẩn:
“Cây này là cây gì vậy? Giống cây nhãn quá, phải không cô?”
“Thưa đúng là cây nhãn đấy, bác ạ.”
Người miền quê, ông ngẫm nghĩ, vẫn giữ được cái nếp nói năng lễ phép với người lạ, khác hẳn đám thanh niên, thiếu nữ ở các đô thị bây giờ, mở miệng ra là chửi thề, văng tục. Ông hỏi tiếp:
“Nhưng sao không thấy bông thấy trái gì cả?”
“Thưa nhãn năm nay đầy hoa nhưng gió lớn rụng hết. Tháng này là mùa nhãn chín đấy bác, nhưng bói đâu cho ra một quả để bác nếm thử xem. Nhãn vùng này có tiếng là ngọt, hạt lại bé tí.”
Giọng nói của cô gái hơi nặng, không chải chuốt như thiếu nữ Hà Nội thuở nào, nhưng cũng dễ nghe. Cô khoảng 18, 19 tuổi, ngón tay thứ tư và ngón út đeo ba chiếc nhẫn, móng tay dài, dáng người khá thon thả, mái tóc cắt ngắn uốn sơ sài, khuôn mặt nhẹ nhàng lanh lợi, môi và má hồng lên dưới nắng hè. Hay có chút phấn son?
“Thế thì năm nay cô không được ăn nhãn ngọt hạt bé tí rồi.”
“Thật ra dù được mùa, chúng cháu cũng ít được ăn lắm ạ. Để bán chứ, ăn hết vốn sao.”
“Bán có được giá không cô?”
“Năm nào được giá, hơn bốn nghìn một ký đấy bác ạ. Cũng khá đấy chứ bác?”
Như một phản xạ, ông lẩm nhẩm tính trong đầu quy ra thành tiền đô la. Cũng chẳng được là bao, vài ba mươi cents. Không muốn nói lên ý nghĩ đó với cô gái, ông đổi đề tài:
“Ở đây thoáng gió quá. Cô thường đến ngồi đây hóng mát phải không?”
“Cháu đâu được nhàn hạ như thế. Chẳng là trời oi quá, cháu đạp xe quanh quẩn một chốc thôi, thưa bác.”
“Thế hôm nay cô không đi học hay sao? Mà cô tên gì? Xin lỗi, tôi quá, quá đường đột?”
“Có gì đâu bác! Cháu tên Hồng. Cháu có đi học chứ sao lại không, nhưng cũng có lúc rỗi. Không những đi học mà còn phải tranh thủ đi làm nông nữa cơ chứ.”
“Cô mà làm nông!”
“Tại sao không hở bác. Cháu đã lớn, cũng được chia ruộng như những người khác chứ.”
“Thế ra vùng này có tục lệ chia ruộng?”
“Theo cháu biết, vùng nào cũng có tục lệ đó.”
“Thế mỗi người được chia bao nhiêu?”
“Vùng này người đông, đất ít, hạn chế ruộng đất. Mỗi người được chia một sào. Cháu đã lớn, cũng một sào.”
“Một sào là cái gì?” ông thành thật hỏi.
Cô gái cười khanh khách:
“Là một sào chứ là cái gì nữa! Có lẽ cháu nói thế này bác khắc biết. Một sào mỗi mùa thu hoạch được một tạ gạo. Chả đủ sống. Rồi nào tiền thuế, tiền điện, tiền nước, cho sào ruộng chứ không phải cho nhà dùng đâu nhé, còn lại không bao nhiêu. Cho nên phải kiếm việc làm thêm nữa chứ.”
“Cô bận học mà còn phải đi làm ruộng, rồi còn làm thêm việc khác. Sao không thuê người khác làm?”
“Phải tự mình làm chứ. Thuê thì phải trả công, sẽ hết nhẵn cả tiền. Cháu phải tranh thủ vừa đi học, vừa làm nông, vừa làm ren.”
Ông ngạc nhiên:
“Sao cô làm nhiều thứ thế, thì giờ đâu?”
Cô gái cười thật tươi:
“Thì giờ ư? Phải tranh thủ. Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ! Câu nói tưởng như đùa nhưng là châm ngôn đấy bác.”
Ông nghĩ thầm cô bé này cũng có học vấn đấy, và hỏi thêm:
“Còn làm ren nữa? Là làm cái gì?”
“Là ren áo quần, khăn tay, khăn bàn, món nào ren được là ren. Ai thuê là mình làm thôi.”
Đôi mắt cô gái chớp lia lịa. Ông không biết đó là cái tật hay cô muốn làm duyên. Miệng nói tươi tắn, vẻ mặt trong sáng, thành thật.
“Nhưng còn làm nông nữa! Cô làm khâu nào trong nghề nông?”
“Thì mùa cấy cháu đi cấy, mùa gặt cháu đi gặt, mỗi năm hai mùa. Những công việc đồng áng lặt vặt khác bố mẹ cháu làm giúp.”
“Công việc lặt vặt là công việc gì?”
“Cháu nói là nói thế thôi. Chứ bố mẹ cháu làm rất nhiều việc. Nào cầy, bừa, nào gieo mạ, nào bắt sâu, nào tát nước. Nhọc nhằn lắm.”
“Tôi nghe nói người ta cải tiến làm ruộng mỗi năm ba, bốn mùa, mỗi mẫu thu hoạch năm sáu tấn. Có máy móc làm thay.”
“Đấy là cách ruộng trong Nam của bác. Lại đất phì nhiêu. Nhưng bác ở trong Nam ra chơi, hay bác là… bác là… Việt kiều? Chứ ngoài này đất cằn lắm. Làm hai mùa đất cũng mệt quá rồi.”
Ông không trả lời cô gái, lại hỏi thêm:
“Đất mệt chứ người không mệt sao? Nhưng móng tay cô để dài như thế làm sao mà đi cấy, đi gặt?”
Cô gái buông tay khỏi nhánh cây nhãn, nhìn ông một cách tinh nghịch và cười rũ người:
“Khó gì cái chuyện đó thưa bác! Thì cắt móng tay trước khi đi cấy, đi gặt. Xong việc nhà nông ta lại ung dung mặc đồ ren mỏng, để móng tay dài, đạp xe quanh quẩn chơi. OK?”
Ông giật mình:
“OK? Cô biết tiếng Anh?”
“Vâng, cháu cũng biết cũng tiềm tiệm. Bố mẹ cháu đã sớm biết lo liệu cho cháu học tiếng Anh từ bé tại nhà trường. Từ cấp một đã học.”
“Cấp một mà đã học tiếng Anh! Tôi tưởng lên cấp hai mới học ngoại ngữ, à, tiếng nước ngoài chứ?”
“Vâng, vẫn học đấy. Vùng này ai cũng học tiếng Anh sớm lắm, vào trường là học ngay…”
“Làm ruộng, đi học, đi ren, bận bịu quanh năm suốt tháng, cô còn đâu thì giờ vui chơi, giải trí, xem đài. Mà nhà cô có ti vi không?”
“Nhà cháu không có, nhưng cháu vẫn tranh thủ đến ngôi nhà ở đầu xóm xem. Nhất là vào thời gian này xem bóng đá. Đang mùa bóng đá giải hành tinh đấy bác ạ.”
Ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
“Cô biết cả coi đá banh?”
“Đá băn? Sao lại băn. Phải gọi là đá ban, đá banh, hay đá bóng chứ lị. Trong Nam bác gọi là bóng tròn phải không ạ? Thưa vâng, cháu cũng biết xem chứ. Sống ở thời đại này mà không biết thưởng thức bóng đá là thiếu văn hoá!”
Ông nghi ngờ, hỏi ướm thử:
“Hay quá, phái yếu mà cũng biết coi đá banh! A, tôi phát âm chữ banh trật rồi, không giống cô. Thế theo cô đội nào sẽ đoạt giải năm nay?”
“Cháu có thể khẳng định rằng đội Ý. Thế bác đội nào?”
Ông lúng túng. Suốt mấy mươi năm trời ông quên hẳn môn thể thao mà ngày xưa ông say mê. Ông trả lời đại:
“Tôi chọn đội Hoà Lan.”
Cô gái cười ngặt nghẽo:
“Bác muốn nói đội Hà Lan? Đội Hà Lan chơi cũng hay nhưng chẳng may không được vào vòng chung kết năm nay!”
Ông cười trừ:
“Ô, tôi nhầm.”
Cô gái nhanh nhẩu:
“Không những cháu biết xem mà còn có thể gọi là sành nữa cơ. Cháu có nói ngoa không? Cháu mê cầu thủ Ý, nhất là Bagiô, những cú dứt lạnh lùng như nét đẹp của anh. Anh ấy đã hết chơi, một mất mát lớn cho nền bóng đá của Ý và của cả loài người. Nhưng cũng còn may là đã có Tôti thay thế Bagiô trong niềm vui thưởng thức bóng đá của cháu rồi đấy ạ!”
Cô bé nói một hơi giọng trầm bổng, trôi chảy, như người đứng trước sân khấu. Ông đứng ngẩn người nghe, ngạc nhiên và thích thú.
Người tài xế từ trong nhà bước ra vội vàng. Cô gái nháy một mắt chào ông rồi ngoảnh đầu đạp xe đi chầm chậm, miệng thì thầm hát, “Biệt ly – Nhớ nhung từ đây …” Thuận tay cô bức mấy chiếc lá nhãn nằm ngay trên đỉnh đầu tung lên cho bay trong gió. Ông nhìn theo. Trời nóng, gió hiu hiu. Vai và lưng cô gái ướt đẫm mồ hôi thấm ra ngoài chiếc áo phin chấm bông cụt tay và mỏng mảnh in rõ sau lưng hai sợi dây nịt vú. Anh tài xế cũng nhìn theo cô gái, mặt mày cau có thấy rõ. Ông ngạc nhiên nhận thấy rằng anh ta có ác cảm đối với cô bé xinh tươi này.
“Bây giờ anh muốn đi đâu?” người tài xế hỏi.
“Nhưng đây là vùng nào?”
“Làng Yên Đổ.”
“Yên Đổ!” ông reo lên ngạc nhiên. “Này anh, quanh đây có chỗ nào để… để thăm không? Nhà lưu niệm một nhân vật lịch sử nào đó chẳng hạn.” Ông nghĩ đến cụ Nguyễn Khuyến.
“Như tôi đã nói với anh hồi sáng, vùng này nghèo lắm. Chẳng có danh lam thắng cảnh gì, chẳng có nơi nào đáng để đến tham quan cả.”
“Hồi nãy trên đường đi, ngồi trên xe tôi đọc được trên các bảng chỉ dẫn nào thị trấn Núi Gôi, nào làng Đô Hai, làng Xuân Bảng. Vậy thì… Nhưng anh đưa tôi đi đâu cũng được… tùy anh. Miễn là sau đó có thể đáp xe lửa vô Trung nội ngày hôm nay là tốt rồi.”
“Vâng.”
Nhận thấy người tài xế ít nói, ông không muốn nghịch ngợm hỏi han gì thêm nhiều nữa. Con đường làng hẹp quá khiến anh tài xế phải xoay xở một hồi lâu mới có thể cho xe ra đường cái, rồi tiếp tục chạy nhanh dần trên con đường dài, nhả ra đằng sau một đám bụi mịt mù. Ông buột miệng:
“Anh xem kìa, lạ chưa. Giữa đồng ruộng phẳng lì tự nhiên mọc lên một trái núi. Núi gì vậy anh?”
“Núi An Lão,” người tài xế đáp.
“Có ai ở trên đó không?”
“Có chứ.”
“Sống trên đó lấy gì ăn.”
“Đó là căn cứ quân sự. Trước năm 54, cũng có đồn Tây đóng trên đỉnh núi ấy để khống chế cả một vùng rộng lớn. Lúc sáng khi anh bảo anh muốn đi Yên Đổ, tôi đoán có lẽ anh nghĩ đến cụ Nguyễn Khuyến chăng? Ngày xưa, cách đây chừng gần một thế kỷ, cụ Nguyễn Khuyến đã mấy lần lên chơi ngọn núi này.”
“Thì mình cũng bắt chước cụ lên đấy chơi nhé anh. Nhưng đến núi An Lão thuận đường không?”
“Không. Với lại từ đây đến đấy không gần như anh tưởng. Thấy núi ngựa chạy ba ngày mà! Nhưng anh muốn tới thì cứ tới. Tới chân núi đứng đấy nhìn lên, chứ không có thì giờ leo núi đâu.”
Trời tối nhanh. Ngồi trên xe lửa, nhìn ra ngoài cửa sổ, ông không nhận ra được gì. Ánh đèn lưa thưa, thấp thoáng của những làng xa trông như những vì sao lẻ loi ở cuối chân trời.
Từ bé ông đã thích đi đây đó bằng xe lửa để ông có thể ngắm cảnh từ cửa sổ toa tàu. Ngồi tựa cửa nhìn ra ngoài cho đến khi nào mỏi mắt thì đứng dậy, đi lui đi tới thoải mái, đi lần tới những toa khác cho giãn tay giãn chân, ngắm cái sinh hoạt thật sống động của những toa xe hạng nghèo, kẻ nằm người ngồi, ăn uống, hát hò, hoặc quây quần nhau giữa sàn xe đánh cờ tướng, đánh bài tây, có người ngang nhiên giăng võng ngay trên đầu hành khách, đạp chân đưa võng kêu kẽo kẹt mà không một ai lấy thế làm phiền.
Có đói bụng thì đi đến toa nhà hàng gọi một ly cà phê nóng, ăn một đĩa trứng ốp la, một lát bánh mì, hút một điếu thuốc lá thơm, có cao hứng bảo khui một chai bia lạnh, ngồi thật lâu nghe tiếng bánh sắt đánh nhịp ầm ầm trên đường sắt. Rồi lần từng bước quay trở về chỗ cũ đứng bên cửa sổ nhìn những cảnh trí mới thay nhau xuất hiện.
Nhưng đó là quá khứ. Nay khác hẳn. Hành khách đông quá, đi đứng qua các toa tàu thì thật là vất vả.
Xe chuyển bánh. Hành khách lục tục kéo cửa sổ xuống kín bưng. Ông vẫn vẫn để cửa sổ mở, ngồi yên, nhìn sâu vào đêm tối bên ngoài. Ông già bên trái ngồi im lìm như bức tượng. Cảm thấy phải bắt chuyện với người bạn đồng hành ngồi kế mình, ông mở lời:
“Ngồi như thế này cho tới sáng ngày mai coi bộ cũng mệt đấy. Phải không bác nhỉ?”
Không có tiếng trả lời. Ông nói tiếp:
“Tôi đi xe lửa như thế này là lần đầu, nghĩa là đi một chuyến dài từ Bắc vô Nam. A, a, có ghé Trung.”
Ông già bên cạnh hắng giọng rồi duỗi người ra kê đầu lên thành ghế, nhắm nghiền mắt làm bộ ngủ. Ông bực mình rủa thầm, cái thằng cha này bất lịch sự quá. Có những tiếng nhao nhao chung quanh:
“Ô kìa cái ông kia!”
“Này, này, kéo cửa sổ xuống cho chúng tôi nhờ một chút đi nào!”
“Đi tầu hỏa lần đầu trong đời phải không? Sao mà cả đẩng thế!”
“Trông thì có vẻ Việt kiều, lại hà tiện đi toa hạng bét như thế này mới lạ chứ.”
Nghe ngang đó ông mới biết người ta đang nói về mình. Ông chau mày, bực mình, lúng túng chưa biết phản ứng như thế nào. Cô hành khách ngồi ghế đối diện quay đầu lại nhỏ nhẹ nói:
“Chú ơi, phải kéo cửa sổ xuống khi tầu bắt đầu rời nhà ga. Bằng không chốc nữa tầu chạy một quãng thế nào bọn chúng nó ngoài kia cũng sẽ ném đá vào. Có người bị đá trúng vào đầu đấy ạ.”
Ông luống cuống vừa đứng dậy vừa nói:
“Thế à. Tôi đâu biết. Cám ơn cô lắm. Mà bọn chúng là bọn nào thế?”
“Cháu không biết ạ.”
Kéo cửa sổ xuống xong, ông kín đáo quan sát cô vừa nói. Cô ngồi cạnh một người đàn ông còn trẻ ngay ở ghế đối diện. Họ hẳn là một cặp vợ chồng son, không thấy con cái đi cùng. Người chồng vừa lên xe đã ngủ, đầu tựa vào thành ghế, hai tay khoanh trước ngực, hai chân co lên ghế ngồi. Người vợ đưa lưng cho chồng dựa, hai chân duỗi dài ra ngoài lối đi chung giữa toa tàu.
Ông áy náy vô cùng. Lúc lên tàu, vì không quen khuân vác, mà cũng vì cái va li khá lớn và nặng, ông một mình không có ai giúp một tay nên không đưa nổi hành lý của mình lên cái kệ ngay phía trên đầu. Chỉ chậm một phút, những hành khách khác đã chuồi hành lý của họ vào đấy.
Đến giờ phút này ông mới vỡ lẽ ra rằng đi một mình trên những chặng đường dài như thế này quả là mạo hiểm. Phải chi có một người bạn đồng hành đỡ đần một tay. Phải chi có Hoạt cùng đi. Ông đành rán sức đẩy bừa cái va ly kềnh càng ấy vào chỗ trống giữa hai dãy ghế ngồi đối diện nhau, định bụng sẽ chuyển nó đi nơi khác khi có chỗ trống. Nhưng càng lúc người vào càng đông, không còn một chỗ nào cho chiếc va li. Phần ông cố nhiên ông phải xoay xở tìm cách gác hai chân vào chỗ nào cho thoải mái, nếu cần gác chân lên trên chiếc va-li. Chốc chốc lại phải đổi thế ngồi cho đỡ mỏi.
Cái bụng của ông lại đang muốn nổi loạn.
Nhưng đây là cái va li của mình thì mình phải chịu đựng nó, còn hai người hành khách trước mặt lại cũng vì mình mà không có chỗ để duỗi chân, thật là rầy rà quá chừng.
Bụng ông quặn đau. Mình ăn uống cái quái gì hồi chiều với anh tài xế, ông thầm hỏi. Buồn cười thật, tự nhiên lại muốn chiều chuộng cái anh chàng khó tính đó một cách thái quá. Từ trước đến giờ mình đâu có muốn chiều chuộng ai đâu. Đối với bạn bè biết tính nhau thì sao cũng được, nhưng đối với người lạ, mình không khéo léo, không quen xã giao, không biết lấy lòng người ta, nếu không muốn nói là thường hay bẳn gắt, khó chơi. Nhiều người nửa đùa nửa thật bảo rằng ông phải biết điều hơn một chút trong cách cư xử, bằng không họ sẽ xin “kính nhi viễn chi”. Chỉ có thằng Hoạt là hợp với mình.
Ông nghĩ đến anh tài xế cựu trung tá. Bỗng dưng mình lại tìm cách chiều chuộng anh tài xế khó tính! Cao hứng ông mua biếu cái kính râm đeo mắt lái xe cho đỡ nắng chói, tặng luôn chiếc đồng hồ đang mang trên tay gọi là để ghi nhớ chuyến đi về thăm quê cụ Tam Nguyên. Rồi mỗi lần xe dừng lại ở quán bên đường nghỉ ngơi, thì nào thịt chó, tiết canh, bánh khảo, bia chai, buổi trưa; nào phèo, nào phổi, nào dồi lợn chấm mắm tôm, rượu nếp, buổi chiều… Toàn là những thứ xưa nay mình không thích. Cứ làm ra vẻ ăn uống “hồ hởi phấn khởi” để cho hắn vui lòng. Cho đến nỗi bây giờ mình mang họa!
Tại sao? Mình đang cố biến thành một người mới? Ông thử dò lại lòng mình. Chắc chắn không phải thế. Chẳng qua, có lẽ, vâng, có lẽ sau mấy mươi năm mới về quê hương thì phải sửa đổi lại hành vi của mình đôi chút cho dễ coi, làm dáng đôi chút cho đẹp mắt. Mà cũng có lẽ vì mình có một ít tiền, trở về một đất nước nghèo khổ, rồi lại ra đi, cùng lắm là xài cho hết nhẵn số tiền mang theo, thì cứ việc trải lòng ra đối với bất cứ ai, nhất là những người khốn khó.
Giả dụ mình trở về ở hẳn chốn này, làm nghề lái xe du lịch cạnh tranh với anh chàng khó tính đó, hay ngay cả khi ôm một đống tiền về quê làm vốn để kiếm kế sinh nhai lâu dài, thì hẳn là mình không còn là con người hào phóng, rộng lượng, và tử tế như thế nữa.
Ông lại băn khoăn. Hình như mình cũng có đổi khác. Hình như mình cũng có cảm thấy được nỗi khổ của người cùng nòi giống, cùng tổ tiên, và muốn chia sẻ. Có khi mình đang muốn làm một cái gì cho quê hương, bắt đầu từ việc giao thiệp nhỏ nhặt hàng ngày như mấy hôm nay.
Mà quê hương là gì? Tổ quốc là gì? Đó là một biểu tượng, một lịch sử, một thực thể, một lá cờ, một câu hò, một món ăn, một dòng sông, một quá khứ, một kỷ niệm, một tương lai, một con người? Vâng, con người quan trọng lắm, người đang còn sống cũng như người đã ra đi vĩnh viễn. Có lẽ quan trọng nhất. Không có con người, ý niệm về quê hương, tổ quốc khó có thể hình thành. Thế nhưng hình như người ta thường thích đấu tranh cho một quê hương chung chung, thường yêu thương một tổ quốc chung chung, nhân danh một lý tưởng viển vông chung chung. Còn khi đối xử trực diện với một con người cụ thể, với anh hàng xóm, với người tài xế, với kẻ đi đường, với bạn đồng song, với người đồng hành, với kẻ thất thế, vân vân, người ta thường thiếu sót một tấm lòng.
Nhưng bây giờ thì tình thế đã đảo ngược. Mình không chia sẻ bớt nỗi khổ cho ai cả đã đành, trái lại đang gây phiền phức. Thật oái ăm, ông bần thần ngẫm nghĩ. Cái va li to tướng nằm chình ình ra đó choán hết cả lối đi, và khoảng trống cần thiết để người ta duỗi chân ra. Ông đang lo lắng chờ những tiếng phản đối hoặc cằn nhằn, trước nhất là từ cặp vợ chồng trẻ ngồi đối diện. Nhưng may mắn cho ông, họ chưa tỏ vẻ khó chịu gì cả. Mong là họ không cau có như ông già ngồi bên cạnh.
Tàu chạy nhanh dần. Tiếng bánh sắt nghiến vào đường sắt trổi lên một nhịp điệu dồn dập, ào ạt như trong một ban nhạc kích động. Ban đầu hân hoan, reo vui. Rồi hối hả, rồi hốt hoảng. Rồi gào thét điên cuồng. Trong đêm đen đặc. Trong đêm thăm thẳm. Trong đêm lạc lõng.
Người ông rã rời. Hai bả vai, lưng, và mông muốn gãy làm đôi. Ông trở mình mãi mà vẫn không tìm được một thế ngồi cho thoải mái. Cái cổ không giữ vững cái đầu, cột xương sống không giữ nổi thân hình, hai vai không giữ được hai cánh tay. Tại sao mình mệt mỏi đến thế này, ông lo sợ. Hay mình đã bị ngộ độc vì những món ăn thổ tả ban chiều. Hay vì sau mấy mươi năm quen sống trên “nhung lụa” bây giờ lại bị ngồi “ghế cứng” suốt cả thời gian dài? Hay chỉ vì cơn đau bụng âm ỉ? Hay vì mấy ngày này phung phí sức khoẻ nhiều quá, lại không ăn uống bồi bổ? Hay vì suốt mấy đêm không ngủ được bao nhiêu. Ông nhớ lại, ban đêm ông chỉ ngủ được một vài tiếng là cùng. Tại vì thời tiết, tại vì môi trường sống thay đổi, cho nên ông mất ngủ?
Vâng, mà cũng tại vì trong lòng ông luôn luôn có những đợt sóng ngầm mà chỉ khi nào một mình ông, không một người nào quen biết đi cùng, như bây giờ, đang ngồi trên toa tàu hạng ba này, ông mới thấy nó trào lên dữ dội. Có thân nhân, có bạn bè bên cạnh, ông hoà đồng với họ, chiều ý họ, chia xẻ cái vui cái buồn của họ. Nay một mình, cơn điên loạn bùng lên.
Con tàu không còn yên ổn nữa. Nó như con thú sẩy chân sắp lao vào vực thẳm. Như quả tạc đạn bay nhanh sắp chạm vào mục tiêu để nổ tung. Có ông trong đó. Nhiều lúc ông giật mình hoảng hốt.
Khuya dần. Ông ngủ thiếp đi từng chặp. Tiếng cọ xát của kim loại, của bánh sắt nghiến trên đường sắt, hòa với tiếng động cơ, tiếng gió xé, đập vào vách đá văng trở lại, hú lên từng hồi ma quái. Thức, ngủ, chập chờn. Những âm thanh hỗn loạn đó lại xoáy vào ruột gan của ông như những con rắn độc quấn nhau lại thành từng nùi rồi bung ra phá phách. Ông ói mửa thốc tháo.
Ông già ngồi bên cạnh đứng dậy, đi thẳng đến cuối phòng đứng lẫn trong đám người đang ngồi ngủ gà ngủ gật. Anh chồng ngồi trước mặt đã thức dậy từ hồi nào mở to mắt chăm chú nhìn ông. Thấy ông nhìn lại, anh vội co cái chân đang gác lên trên cái va li của ông. Anh ta quay người sửa lại dáng ngồi và rút từ trong túi áo sơ mi một điếu thuốc lá bèo nhèo châm lửa hút thật sâu, cầm hơi thật lâu, rồi phì phà nhả từng hơi khói thật dài. Chị vợ cũng đã thức dậy. Chị loay hoay cúi tìm một cái gì trong cái xách tay nhỏ. Xong chị nhìn ông, ái ngại:
“Khổ chưa! Toa tầu hạng ba không có trạm xá.”
Ông mệt nhọc nhìn chị, hỏi:
“Chị nói gì?”
“Không có thuốc. Chú thử xức tạm chút dầu này xem sao.”
Chị đưa cho ông ve dầu nhỏ, nói tiếp:
“Chú cứ xức ngay vào cổ, vào hai mang tai, vào mũi, vào trán, vào sau gáy, vào rốn nữa. Xong chú thấm dầu vào đầu ngón tay rà vào lưỡi. Ít thôi. Trong uống ngoài xoa xem có đỡ không.”
Ông nhìn chị, cám ơn, cầm lấy ve dầu làm y như lời chị vừa nói. Lại ói mửa thêm một ít. Với chút dầu cay cay, nóng nóng, thơm thơm, ông cảm thấy nhẹ người đi phần nào. Ông lặng lẽ rút từ ngăn ngoài của chiếc va li một cái khăn lông lớn lau sạch chỗ dơ bẩn, và trả lại ve dầu.
“Chú cứ giữ lấy mà dùng, cháu còn chai khác.”
Ông nén cảm động, thành thật cám ơn, và cho ve dầu vào túi áo ngực. Đó là một loại dầu màu đỏ thẩm giống như dầu Nhị Thiên Đường mà ông không hề thấy trong hơn 25 năm sống ở Mỹ. Đúng ra trong thời gian đó có một lần ông gặp một bà cụ từ Việt Nam mới qua đi đâu cũng mang theo ve Nhị Thiên Đường trong người để phòng khi trở trời trái gió, như cụ nói. Thế mà lạ quá, mỗi lần cụ lấy dầu ra xức trước mặt những người Mỹ sống ở đây, họ tránh xa ngay. Không phải chỉ giới trẻ không chịu nổi mùi dầu đó, những bà già da trắng sàn sàn với tuổi của cụ cũng sợ chai dầu ấy.
Ông lấy làm lạ nhưng không tiện hỏi, rồi ông quên bẵng chuyện đó. Còn riêng ông có thích thứ dầu ấy không? Hồi còn ở Việt Nam, ông cũng ít khi dùng đến nó. Họa chăng khi còn bé, trong những lúc nhức đầu, sổ mũi bất thường mà chưa có thuốc để uống, được mẹ bôi dầu vào trán, vào mũi, vào bụng. Cảm thấy yên lòng. Bây giờ cầm lại chai dầu từ tay người đàn bà trẻ tuổi của xứ Bắc tình cờ gặp trên xe lửa, ông bỗng thấy bồi hồi như gặp được người thân đã thất lạc lâu ngày.
Toa tàu lắc lư, đu đưa, giật giật, thỉnh thoảng đánh thức đám hành khách trong chốc lát rồi lại tiếp tục đưa họ vào giấc ngủ mê mệt. Bỗng con tàu tuôn ra một tràng quát tháo dữ dội. Ông giật mình tỉnh dậy hẳn. Một con tàu ngược chiều ào ào lướt qua. Chắc là sắp đến một ga nào, ông nhủ thầm.
Tâm trí ông dần dần quay lại những ngày vừa qua. Nhiều hình ảnh hiện lên như những đoạn phim quay chậm.
Đêm hôm đó, đêm Hà Nội dạo Hồ Tây, ông đi vòng vòng nhiều nơi. Mỏi chân đứng lại, rồi lại đi, vẫn không tìm được một ghế trống để ngồi xuống nghỉ ngơi. Hà Nội đêm Hồ Tây mùa hè hóng gió dành cho những cặp thanh niên nam nữ hôn nhau, quấn vào nhau, mở nút áo, nút quần cho nhau. Ông tò mò nhìn, rồi cảm thấy ngượng, đi chỗ khác lại nhìn thấy cảnh đó, rồi lại đi chỗ khác, lại nhìn, cứ thế.
Suốt cả ngày đi rảo qua các phố cũ mệt nhoài, buổi tối lại tiếp tục đi và đi, đôi chân rã rời, miệng đắng và khát nước. Ông không biết những quán giải khát nằm nơi đâu. Ghế đá đều có người ngồi kín. Mãi đến khuya, ông mới tìm được một ghế đá để ngồi xuống nghỉ chân, mong ước rằng sẽ có thể được nhìn trời mây bao la của Hà Nội đêm trùm lên mặt hồ mênh mông, và lắng nghe quá khứ của ngàn năm kéo về, những đêm dài lịch sử, những bình minh của tổ quốc, những vinh quang, những tủi nhục.
Nhưng mong ước đó không đến với ông. Một người chẳng biết từ đâu xuất hiện đột ngột nói bên tai ông một thôi dài:
“Này chú! A, này anh giai, anh giai. Sinh viên thứ thiệt đấy nhé, hiện đang học đại học tổng hợp.”
Ông bỡ ngỡ một thoáng, rồi hiểu ngay. Lại thêm một người khác sấn tới, tranh nói:
“Đại học ngoại ngữ, đại học thủy sản, đại học kiến trúc… Nếu anh muốn, có ngay.”
Người đầu tiên vội cướp lời:
“Nhưng anh phải nghe tôi nói trước đã nhé. Đại Học Sư Phạm nhé, cũng có. Cô giáo cấp ba tương lai đấy, trẻ lắm, đẹp lắm, mới tinh khôi. Không tính đắt đâu. Biết hát nữa, karaoke, hát hay lắm. Ca sĩ nghiệp dư mà. Cực kỳ quyến rũ…”
Ăn nói báng bổ khoác lác quá, ông nghĩ thầm. Nếu ông được nghe những lời lẽ đó trong một dịp khác, có lẽ ông cũng tò mò muốn tìm hiểu thêm.
“Cám ơn hai anh. Nhưng hôm nay tôi bận.”
Một người nói:
“Khuya khoắt như thế này mà còn bận cái nỗi gì. Vô lý. Đi theo tôi ngay kẻo…”
Người kia chận lời:
“Anh giai ơi, đi theo tôi. Này cái thằng kia, cấm mày không được giở trò.”
Ông bực mình nói lớn:
“Hai anh có để cho tôi yên không nào?”
Cả hai tranh nói:
“Thì yên chứ sao không yên. Chỗ này yên ổn nhất, an toàn nhất. Trong một biệt thự sang trọng.”
Ông nói như quát:
“Tôi đi gọi cảnh sát bây giờ!”
“Ô hay! Cảnh sát là cái thế quái gì vậy? Cái ông dở hơi này!”
Ông đứng dậy bỏ đi nơi khác. Những tiếng nói ấy đuổi theo ông một quãng đường.
Đi mãi, gặp đường Nghi Tàm ông đứng lại, quay nhìn xuống hồ. Ông cố nhìn thật xa, nhưng ban đêm ông không thể trông thấy bờ bên kia của Hồ Tây. Hôm đầu tiên khi đi trên đường Cổ Ngư anh tài xế có trỏ tay về phía ấy nói đó là vùng Chợ Bưởi, Nghĩa Đô. Ông chợt nhớ đó là quê quán của người bạn thân của ông hiện sống tại Porland, Oregon, Hoa Kỳ. Mỗi lần nhắc đến quê nhà là anh rơm rớm nước mắt. Giá mình qua được bên đó để thăm quê giùm cho người bạn, mua một món quà lưu niệm đem về tặng. Ngày mai phải đến đó, ông tự nhủ.
Hà Nội đêm! Đêm tối mênh mông tung mẻ lưới khổng lồ trùm lên mặt hồ thao thức, trùm lên những đám thanh thiếu niên đờ đẫn, lên những đám người làm nghề dẫn mối lì lợm, lên những con đường buồn phiền, những địa danh huyễn hoặc.
Và ông cũng thảng thốt cảm thấy Hà Nội đêm hình như đang rình rập giăng bẫy bủa vây ông, dù ông đã nằm gọn trong vòng vây từ bao giờ! Ông vội móc đồng hồ từ túi quần sau ra xem — ban đêm ông không dám đeo đồng hồ nơi cườm tay đứng lớ ngớ ở những nơi như thế này, sợ bị giật — quá nửa đêm rồi.
Đám người trên những ghế đá thưa dần. Họ đi lẩn lút, mất hút trong đêm tối như những bóng ma. Ông chột dạ nhìn quanh thật lâu, không nhận ra đường về. Không thấy xe tắc-xi hay xe ôm. Ông có phần hoảng hốt lần mò đi vào nhiều ngõ tìm kiếm. Gió khuya lùa tới, bỏ ông ở lại đằng sau, bay luồn qua những con đường vắng vẻ, xa lạ, rồi đậu lại, đu đưa trên những ngọn cây phượng, cây bàng, cây sấu, cây hoa sữa, xào xạc, âm u.
Gần 2 giờ sáng, ông mới tìm được đường về khách sạn.
Ông ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Giật mình tỉnh dậy, thấy bụng vẫn còn lâm râm, thấy lưng mỏi nhừ, tay chân buông xuôi, uể oải, cổ không giữ vững cái đầu. Chắc khi ngủ quên, mình trông giống như tên tử tội sau nhát “chém treo ngành”, đầu gục qua một bên vai, miệng sùi bọt mép. Chợt nghĩ như vậy, ông vội đưa tay sờ mồm, thấy lờn nhờn dơ dáy. Vội liếc nhìn cặp vợ chồng ngồi đối diện và vội rút chiếc khăn tay từ trong túi quần.
Con tàu vẫn đang chạy nhanh trong đêm, đèn trần tỏa ánh sáng yếu ớt, cái quạt đứng ở cuối toa bị vướng vào một chiếc nón cối treo kế bên cửa sổ, quay chưa được nửa vòng lại quay lui.
Tàu có lẽ đã ngừng lại ở nhiều ga rồi, ông ngẫm nghĩ, và ông để ý thấy có dăm ba hành khách đã xuống xe nhưng số hành khách mới lên xe càng lúc càng nhiều. Không có chỗ ngồi, số hành khách mới lên đó, già trẻ lớn bé đủ loại, kẻ đứng dựa vào thành ghế, kẻ ngồi tựa trên đống hành lý hay ngồi bệt xuống sàn tàu. Khung cảnh toa tàu hạng ba lúc đó trông không khác gì cảnh đám người chạy loạn.
Bỗng một nỗi chán chường chiếm hết tâm hồn ông. Ông bỗng nghĩ đến những ngày cũ, tuổi nhỏ, lớn lên, tình yêu, chiến tranh, chém giết, quê hương… Tâm trí đi lang thang qua nhiều thăng trầm của cuộc sống.
Rồi ông lại ngủ lơ mơ, nghe trong hồn, trong tim những tiếng hú, tiếng gào, tiếng cọ xát sàn sạt bên tai như hàng ngàn lưỡi dao chém vào rừng dây kẽm gai rướm máu, như hàng ngàn lằn đạn chạm vào những công sự phòng thủ bê tông nứt nẻ, đổ vỡ, quét vào những chiếc nón sắt tóe lửa, những cái đầu vỡ toang không băng bó, những lồng ngực thủng lỗ phun máu, những cánh tay gãy gập lòi xương, những bàn chân dính vào chiếc giày trận dập nát… như nghe những lời nguyền rủa, đay nghiến đầy nọc rắn độc của hung thần ác quỷ quyện vào tiếng thét tuyệt vọng kéo dài đến vô tận của những con thú bị dồn vào hang đá hoang vu bức tử.
Ôi, miền Nam!
Xe ngừng. Ông tỉnh ngủ. Ông cố gắng tập trung tinh thần lại. Cơn đau bụng của ông đã giảm nhiều. Buổi sáng hiện mờ mờ ngoài kia qua khe cửa sổ. Buổi sáng đang xua đuổi những cơn đồng thiếp đi nơi khác.
Dừng lại chỉ độ năm phút, con tàu tiếp tục lên đường. Ông mở hé cửa sổ. Gió buổi sáng sớm xuyên qua cửa sổ thổi vào toa tàu đem lại cho ông cảm giác hồi sinh. Tàu chạy nhanh dần, động cơ lại xục xịch khua hối hả, bánh xe nghiến thành những nhịp dồn dập, còi tàu chốc chốc hú lên vội vã, và gió lồng lộn bên ngoài rít lên từng hồi. Như thôi thúc, như giục giã. Thôi thúc, giục giã người đi xa lâu ngày hãy mau quay về chốn cũ! Sắp đến rồi chăng, ông tự hỏi.
Ông già bên cạnh đã trở lại từ lúc nào, ngồi ngay ngắn, đầu tựa vào lưng ghế, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhắm. Cặp vợ chồng đối diện ngồi dựa lưng nhau ngủ say, đầu cũng tựa vào nhau. Chị vợ mái tóc dài xỏa xuống che một bên ngực, cái kẹp tóc bằng nhựa rẻ tiền bị sút ra vướng vào mấy sợi tóc, nằm hờ trên vai, hai chân của chị co lại trên ghế ngồi, vẻ mặt bình thản gần như trẻ thơ. Anh chồng đội chiếc nón vải kéo che kín mặt, chân không có chỗ duỗi lại gác lên trên chiếc va li của ông, đôi giày vải đế cao su có lỗ rách lòi ngón chân cái.
Cái va li rầy rà quá! May mà mình gặp được cặp vợ chồng hiền lành. Nhưng mình cũng phải biết điều chứ. A, anh chàng này là con sâu hút thuốc, chốc nữa mình mua biếu hắn một bịch thuốc lá. Còn chị vợ? Ông chưa nghĩ ra một món quà nào cho thích hợp.
Trong toa vài ba người lần từng bước chen qua đám hành lý nằm ngổn ngang trên sàn tàu, hoặc hai tay vịn vào thành ghế đu người tiến đến buồng vệ sinh.
Tàu chạy chậm dần, động cơ khua xục xịch, rời rạc, mệt nhọc. Bánh sắt thắng lại kéo lê trên đường sắt tạo thành tiếng siết chói và gắt. Đám hành khách trong toa tàu đều tỉnh giấc. Những tiếng gọi nhau xì xầm, những cánh cửa sổ được đẩy lên kêu rẹt rẹt, những cái đầu thò ra ngoài nhìn tới nhìn lui.
Tàu dừng lại hẳn. Huế, có lẽ Huế đây rồi. Ông cảm thấy tim đập nhanh thêm một chút. Ông cũng đẩy hẳn cửa sổ lên, quay đầu nhìn dáo dác. Bảng hiệu khá to với dòng chữ kẻ: Ga Đồng Hới.
(Còn tiếp)
bài đã đăng của Ngự Thuyết
- Một Xóm Đạo Ven Rừng - 04.11.2025
- con ếch - 23.09.2025
- cao bay xa chạy - 06.09.2025
- qua trung đông - 26.06.2025
- Bèo Mây - 04.04.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 11) - 14.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 10) - 10.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 9) - 08.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 8) - 03.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 7) - 01.01.2025
- lưu đày và quê nhà (kỳ 6) - 26.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 5) - 24.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 4) - 19.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 3) - 17.12.2024
- lưu đày và quê nhà (kỳ 1) - 10.12.2024
- kinh ngạc - 09.10.2024
- bỗng một hôm - 24.09.2024
- Bà Võ Phiến - 14.08.2024
- trống - 30.05.2024
- một thời hoang dã - 24.05.2024
- Câu Chuyện Của Nó - 16.05.2024
- Mẹ – tập truyện Ngự Thuyết - 29.11.2021
- Trở lại với "Đêm Qua Bắc Vàm Cống" và mấy bài thơ đầu đời của Tô Thùy Yên - 01.10.2019
- Đi - 26.08.2019
- ĐÊM QUA BẮC VÀM CỐNG - 06.06.2019
- ĐÊM - 07.05.2019
- ĐỒI XANH - 25.03.2019
- RỪNG - 13.02.2019
- Las Vegas 2019 Countdown - 14.01.2019
- MẸ - 02.11.2018
- Trận cuối - 30.04.2018
- Biệt Ly trong Thơ - 28.12.2017
- VỀ ĐÂU (kỳ 2/2) - 30.10.2017
- VỀ ĐÂU - kỳ 1/2 - 26.10.2017
- NGÔI NHÀ LÝ TƯỞNG - 31.07.2017
- THANH TÂM TUYỀN, NHÀ THƠ TIÊN PHONG - 15.12.2014
- MỐI TÌNH ĐẦU hay THỬ NHÌN LẠI “ĐÂY THÔN VỸ” của HÀN MẶC TỬ - 29.09.2014
- Thử đánh giá lại HỒN BƯỚM MƠ TIÊN của Khái Hưng - 11.08.2013
- Đi chợ - 02.02.2011
- Nước non ngàn dặm... - 27.12.2010
- Bắc hành - 02.08.2010
- Tuyển Tập Ngự Thuyết - 23.01.2010
- Bước thấp bước cao - 14.09.2009
- Tóc Trắng - 31.08.2009
- Thử Đọc Lại Ba Bài Thơ Cũ - 10.08.2009
- Nước dâng đầy - 06.08.2009
- Tự Do Ngôn Luận và Trách Nhiệm Người Viết - 08.05.2009
- Mẹ Biệt Ly - 20.01.2009