Home » Chuyên Đề, Translations, Đoản văn, Sáng Tác, To Vietnamese, Văn Chương Ukraine Email bài này

Máy đo khí áp

♦ Translated by: 0 comment ♦ 9.03.2022

 

clip_image002

1.

4 giờ sáng, gia đình tôi tụm nhau cạnh bên cánh cửa lớn, không hiểu có nên mở cửa cho một người lạ trên thân chỉ đơn cộc chiếc quần ngủ, người đã đập cửa liên tục hơn năm phút, đánh thức cả khu chung cư. Thấy đèn bật sáng, anh ta bắt đầu hét qua cửa.

“Nhớ tôi không? Tôi đã giúp mấy người chở chuyển cái tủ lạnh từ Pridnestrovie. Nhớ chưa? Trên chuyến đi lần đó chúng ta đã nói chuyện về Pasternak. Cả hai tiếng đồng hồ! Đêm nay tụi nó nổ bom vào bệnh viện. Em gái tôi làm y tá ở đó. Tôi đã lấy trộm chiếc xe tải và lái qua biên giới. Tôi không biết ai khác. Có thể nào cho tôi gọi nhờ một cú điện thoại được không?”

Hai mươi năm trước, chiến tranh đã bước chân trần vào tuổi thơ tôi như thế, dưới danh nghĩa một người đàn ông lưng trần đang ngốn nghiến cái điện thoại. Ông, một nạn nhân của chiến dịch “viện trợ nhân đạo” sơ khai thời kỳ hậu-Xô-Viết.

2.

Trong chuyến đi thăm Ukraine gần đây, tôi hẹn ông bạn thơ Boris Khersonsky gặp nhau uống cà phê buổi sáng trong phố để nói chuyện về Pasternak (cứ như thể ông ta là đề tài duy nhất cho mọi người quanh đây). Nhưng khi tôi đến lúc 9 giờ sáng, mấy cái bàn nhỏ trên vỉa hè lật ngả nghiêng và gạch đá đổ nát xuống mặt đường từ tòa nhà bị đánh bom.

Một đám đông, thêm mấy nhóm truyền thông địa phương, đã tập trung quanh Boris khi ông lên tiếng phản đối chống những vụ đánh bom, chống một chiến dịch viện trợ nhân đạo giả mạo khác từ Putin. Một số người vỗ tay; những người khác lắc đầu không tán thành. Vài tháng sau, cửa ra vào, sàn nhà và cửa sổ căn hộ của Boris bị phá nổ tung.

Có rất nhiều câu chuyện như thế. Chúng thường được chia sẻ bằng những câu nói ngắn, vội vã, sau đó chủ đề được thay đổi đột ngột.

Orwell viết: “Những kẻ không tham chiến không bao giờ chấp nhận những cuốn sách trung thực về chiến tranh.”1

Khi người Mỹ hỏi về các sự kiện gần đây ở Ukraine, tôi nghĩ đến hai dòng thơ này của Boris:

họ mang chất nổ đi khắp thành phố
trong những túi hàng nhựa và những cái va li nhỏ.

 

3.

Trong hai mươi năm qua, Ukraine bị đặt dưới sự quản trị từ cả hai miền Đông nói-tiếng-Nga và miền Tây nói-tiếng-Ukraine. Chính phủ vẫn thường sử dụng “vấn đề ngôn ngữ” để kích động xung đột và bạo lực, một cách hiệu quả để đánh lạc hướng các vấn đề thực tế đang diễn ra. Xung đột gần đây nhất đã phát sinh từ những chính sách bất cập của Tổng thống Yanukovych, người đã bỏ trốn sang Nga sau đó. Yanukovych được mọi người thừa nhận là một tổng thống tham nhũng nhất từ trước đến nay (ông đã bị buộc tội cưỡng hiếp và hành hung, cùng những tội khác, từ thời Liên Xô). Tuy nhiên, ngày nay, chính phủ mới ở Ukraine vẫn tiếp tục thu dụng nhiều nhà tài phiệt và chính trị gia chuyên nghiệp có những phả hệ khôn khéo và những động cơ khả nghi.

Khi sự bất hòa giữa chính quyền Yanukovych và quần chúng biểu tình bắt đầu vào năm 2013 và ông Tổng thống gặp khó phải rời khỏi nước ngay sau đó, Putin đã điều quân đến Crimea, một lãnh thổ của Ukraine, dưới danh nghĩa bảo vệ người dân nói tiếng Nga. Chẳng bao lâu, vùng đất này đã bị sát nhập. Chỉ vài tháng sau, với lý do viện trợ nhân đạo, Nga đã gửi thêm nhiều lực lượng quân sự đến Donbas, một lãnh thổ Ukraine khác, và tại nơi đó một cuộc chiến tranh ủy nhiệm đã bắt đầu.

Suốt thời gian này, việc bảo vệ ngôn ngữ Nga liên tục được coi là lý do duy nhất cho sự thôn tính và chiến sự.

Tiếng Nga ở Ukraine có cần sự bảo vệ này không? Để đối phó với sự chiếm đóng của Putin, nhiều người Ukraine nói tiếng Nga đã chọn đứng về phía những người láng giềng nói tiếng Ukraine, thay vì kình chống lại họ. Khi sự xung đột bắt đầu gia tăng, tôi nhận được e-mail này:

Tôi, Boris Khersonsky, làm việc tại Đại học Quốc gia Odessa, nơi tôi đã chỉ đạo khoa tâm lý học lâm sàng từ năm 1996. Trong suốt thời gian đó tôi đã giảng dạy bằng tiếng Nga, và chưa ai khiển trách tôi đã “phớt lờ” tiếng Ukraine, ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Tôi ít nhiều thông thạo tiếng Ukraine, nhưng hầu hết học trò tôi thích các bài giảng bằng tiếng Nga hơn, và vì vậy tôi giảng bằng ngôn ngữ đó.

Tôi là một nhà thơ tiếng Nga; sách của tôi đã được xuất bản hầu hết ở Moscow và St. Petersburg. Công trình học thuật của tôi cũng đã được xuất bản ở đó.

Chưa bao giờ (có nghe tôi nói không – CHƯA BAO GIỜ!) có ai đã buộc tội tôi vì tôi là một nhà thơ Nga và giảng dạy tiếng Nga ở Ukraine. Ở mọi nơi, tôi đọc thơ tôi bằng tiếng NGA và chưa bao giờ tôi gặp phải bất kỳ phiền toái nào.

Tuy nhiên, ngày mai tôi sẽ đọc các bài giảng của mình bằng ngôn ngữ quốc gia — tiếng Ukraine. Đây sẽ không chỉ là một bài giảng — nó sẽ là một hành động phản đối để tỏ rõ tình đoàn kết với nhà nước Ukraine. Tôi kêu gọi các đồng nghiệp của tôi cùng tham gia hành động này.

Một nhà thơ tiếng Nga từ chối giảng dạy bằng tiếng Nga như một hành động đoàn kết với Ukraine đang bị [Nga] chiếm đóng. Sau đó, tôi nhận được nhiều email như thế từ các nhà thơ và thân hữu. Peter, anh họ của tôi, viết từ Odessa:

Linh hồn chúng tôi đang lo lắng, và chúng tôi sợ hãi, nhưng thành phố vẫn an toàn. Đôi khi, vài tên ngu xuẩn đứng lên và thông báo rằng họ theo Nga. Nhưng chúng tôi ở Odessa chưa bao giờ nói với ai rằng chúng tôi chống lại Nga. Hãy để người Nga làm bất cứ điều gì họ muốn ở Moscow của họ và để họ thương mến Odessa của chúng tôi ít hay nhiều tùy theo ý họ — nhưng không phải với một đoàn xiếc có lính tráng và xe tăng!

Một người bạn khác, nhà thơ nói tiếng Nga Anastasia Afanasieva, từ thành phố Kharkiv của Ukraine, đã viết về chiến dịch “viện trợ nhân đạo” của Putin nhằm mục đích bảo vệ ngôn ngữ của cô ta:

Trong năm năm qua, đã sáu lần tôi đến thăm miền Tây-Ukraine-nói-tiếng-Ukraine. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị kỳ thị vì tôi nói tiếng Nga. Chuyện đó chỉ là huyền thoại. Ở tất cả các thành phố miền Tây Ukraine mà tôi đã đến thăm, tôi đã nói chuyện với mọi người bằng tiếng Nga – ở cửa hàng, trên xe lửa, trong quán cà phê. Tôi đã có được nhiều bạn mới. Thay vào đó, mọi người đều đối xử với tôi một cách tôn trọng. Tôi xin bạn, đừng nghe những lời tuyên truyền. Mục đích của nó là chia rẽ chúng ta ra. Chúng ta vốn đã khác nhau rồi, chúng ta đừng trở thành đối nghịch, đừng gây chiến tranh trên lãnh thổ mà chúng ta đang chung sống. Cuộc xâm lược quân sự diễn ra ngay lúc này là thảm họa cho tất cả chúng ta. Chúng ta cần phải tỉnh táo, đừng sợ những đe dọa không hiện hữu, khi đang có một đe dọa thực sự: cuộc xâm lăng của quân đội Nga.

Đọc hết thư này đến thư khác, tôi không thể không nghĩ về việc Boris từ chối dùng ngôn ngữ của ông, như một hành động phản đối cuộc xâm lược quân sự. Nghĩa lý gì, khi một nhà thơ từ chối dùng ngôn ngữ mình?

Ngôn ngữ có phải là một nơi bạn có thể rời bỏ? Ngôn ngữ có phải là một bức tường bạn có thể vượt qua? Phía bên kia của bức tường là gì?

4.

Mọi nhà thơ đều từ chối sự công kích của ngôn ngữ. Sự từ chối này tự thể hiện trong sự im lặng, được soi sáng bởi những ý nghĩa của từ vựng thơ – những ý nghĩa có được không phải từ những gì nó nói, mà từ những gì nó giữ lại. Như Maurice Blanchot đã viết, “Viết là phải tuyệt đối nghi ngại việc viết, trong khi hoàn toàn giao phó chính mình cho nó.”2

Thời điểm này Ukraine là một nơi mà những tuyên bố như thế đáng được thử thách. Một nhà văn khác, John Berger, nói về mối quan hệ của một cá nhân với ngôn ngữ của họ: “Ngôn ngữ có khả năng làm quê hương duy nhất của con người.” Ông khẳng định rằng đó là “nơi trú ẩn duy nhất không thể là nghịch cảnh với con người… Người ta có thể nói bất cứ điều gì với ngôn ngữ. Đó là lý do tại sao ngôn ngữ là một đối tượng sẵn sàng lắng nghe, gần gũi với chúng ta hơn bất kỳ sự im lặng nào hay bất kỳ thần thánh nào.”3 Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi một nhà thơ từ chối ngôn ngữ của mình như một hình thức phản kháng?

Hoặc, đặt câu hỏi này trên bình diện rộng hơn: điều gì xảy ra với ngôn ngữ trong thời chiến? Sự trừu tượng, rất nhanh, sẽ mang tính hiện thực. Lyudmyla Khersonska, một nhà thơ Ukraine, đã nhận ra thế khi nhìn thấy cơ thể mình chứng kiến ​​cuộc chiến xung quanh: Chôn sâu trong cổ người, một viên đạn giống như một con mắt, được khâu vào. Cuộc chiến của nhà thơ Kateryna Kalytko cũng là một cơ thể vật chất: Chiến tranh thường đi theo và nằm xuống giữa bạn như một đứa trẻ / sợ bị bỏ lại một mình.

Ngôn ngữ của thơ ca có thể thay đổi chúng ta hoặc không, nhưng nó vạch rõ những thay đổi bên trong chúng ta: nhà thơ Anastasia Afanatieva viết, dùng ngôi thứ nhất số nhiều “chúng ta,” cho chúng ta thấy sự chiếm đóng một quốc gia ảnh hưởng đến tất cả công dân của nó như thế nào, bất kể ngôn ngữ họ nói:

khi xe tải mang súng cối
chạy dọc trên đường phố
chúng tôi không hỏi bạn là ai
bạn theo bên nào
chúng tôi ngã thân xuống sàn và nằm đó.

 

5.

Trong một lần đi Ukraine khác, tôi thấy một người hàng xóm trước đây của tôi, giờ đã tàn tật vì chiến tranh, đang đứng giơ tay ra. Ông ta đi chân trần không giày dép. Khi tôi vội vã đi ngang, với hy vọng ông ta sẽ không nhận ra tôi, tôi chợt ngỡ ngàng vì bàn tay trống không của ông. Như thể ông ta đang giao lại cho tôi cuộc chiến của mình.

Khi đi khỏi ông, tôi chợt thấy một cảm giác quái lạ khi nhận ra điều này: giọng nói của ông, giọng nói của những nhà thơ Ukraine mà tôi đã từng trò chuyện, nghe tựa như giọng nói của những người ở Afghanistan và Iraq, sau khi nhà cửa của họ đã bị tàn phá từ tiền thuế tôi đóng vào.

6.

Vào cuối thế kỷ 20, nhà thơ Do Thái Paul Celan đã trở thành một vị thánh bảo hộ cho việc viết lách trong cơn khủng hoảng. Sáng tác bằng tiếng Đức, ông ta đã phá vỡ ngôn ngữ để phản ánh việc trải nghiệm một thế giới mới đang bị xâm hãm. Điều này đang xảy ra trước mắt chúng ta, ở Ukraine.

Đây là trường hợp của nhà thơ Lyuba Yakimchuk, có gia đình vốn là dân tỵ nạn từ Pervomaisk, thành phố thuộc những cứ điểm chính bị chính sách “viện trợ nhân đạo” gần đây nhất của Putin nhắm tới. Trả lời câu hỏi của tôi về quá khứ của cô, Lyuba trả lời:

Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng Luhansk, bị tàn phá vì chiến tranh, và hiện giờ quê hương Pervomaisk của tôi đang bị chiếm đóng. Tháng 5/2014 tôi đã thấy ​cuộc chiến bắt đầu như thế nào. . . Vào tháng 2/2015, cha mẹ và bà của tôi, sống sót sau cuộc chiến khốc liệt, đã lên đường rời khỏi vùng đất bị chiếm đóng. Họ bỏ đi dưới làn đạn pháo kích, với vài túi quần áo. Một người bạn tôi là lính [Ukraine], đã suýt bắn bà tôi khi họ chạy trốn.

Bàn luận về văn học trong thời chiến, Yakimchuk viết: “Văn học tranh đua với chiến tranh, thậm chí có thể thua chiến tranh về khả năng sáng tạo, do đó văn học bị chiến tranh thay đổi.” Trong thơ cô, người ta thấy chiến tranh chia cắt lời cô như thế nào: “đừng nói với tôi về Luhansk,” cô viết, “từ lâu rồi nó đã biến thành hansk / Lu đã bị san bằng xuống đất / trên vỉa hè rực đỏ.” Thành phố Pervomaisk nát vì bom “đã bị chia cắt thành pervo và maisk” và lớp vỏ của Debaltsevo giờ là “deb, alts, evo.” Qua lăng kính của thứ ngôn ngữ rời rạc này, nhà thơ tự thấy mình:

Tôi nhìn chăm chắm đến chân trời
. . . Tôi đã già đi nhiều
không còn là Lyuba
chỉ là – ba.

Cũng giống như nhà thơ tiếng Nga Khersonsky từ chối dùng ngôn ngữ của mình khi Nga chiếm đóng Ukraine; Yakimchuk, một nhà thơ tiếng Ukraine, từ chối dùng một ngôn-ngữ-không-phân-mảnh khi đất nước đang bị chia cắt trước mắt cô. Khi nhà thơ thay đổi chữ dùng, chia nhỏ chúng ra và đối lại âm thanh từ bên trong các chữ, các âm thanh đó chứng nhận cho những kiến thức chúng vốn không tự có. Không còn ngữ nghĩa nhưng vẫn hiểu được, những chữ vỡ vụn này đối mặt sâu sắc với người đọc, từ bên trong và bên ngoài ngôn ngữ.

Bài thơ chứng thực này nhắc nhở người đọc rằng thơ không đơn thuần miêu tả một sự kiện; tự nó là một sự kiện.

7.

Chính xác thì chứng thực của thơ là gì? Ngôn ngữ trong thơ có thể, hoặc không thay đổi chúng ta, nhưng nó vạch ra những thay đổi bên trong chúng ta. Giống như một máy đo địa chấn, nó ghi lại những lần chấn động hung bạo. Miłosz đặt tựa Chứng Thực của Thơ [The Witness of Poetry] cho một bài viết của ông “không phải vì chúng ta chứng thực nó, mà vì nó chứng thực chúng ta.”4 Sống phía bên kia Bức Màn Sắt, Zbigniew Herbert đã nói tương tự: một nhà thơ giống như một máy đo khí áp tâm hồn của một quốc gia. Nó không thể thay đổi thời tiết. Nhưng nó cho chúng ta biết thời tiết ra sao.

8.

Có thể nào việc đọc kỹ một nhà thơ trữ tình sẽ cho chúng ta thấy điều gì đó rất khả tri — tâm lý một quốc gia? âm nhạc một thời đại?

Làm thế nào mà cột sống của một nhà thơ trữ tình lại rung động như một cây kim máy đo khí áp? Có lẽ vì nhà thơ trữ tình là một người rất kín đáo: trong khoảng sống tư riêng của họ, họ tạo ra một ngôn ngữ – đủ gợi, đủ lạ – cho phép họ trò chuyện, một cách riêng tư, với nhiều người trong cùng một lúc.

9.

Sống xa Ukraine hàng trăm dặm, cách xa cuộc chiến này, trong khoảng sân nhà thoải mái bên Mỹ, tôi có quyền gì để viết về cuộc chiến này? – dẫu vậy tôi không thể ngừng viết về nó: không thể ngừng nghiền ngẫm về từ ngữ của các nhà thơ từ quê hương tôi, bằng tiếng Anh, thứ ngôn ngữ họ không nói. Vì sao có nỗi ám ảnh này? Giữa các câu là khoảng lặng tôi không kiểm soát được. Dù là một ngôn ngữ khác nhưng khoảng lặng giữa các câu văn vẫn giống nhau: đó là khoảng không gian mà tôi thấy một gia đình đang quây quần cạnh cửa lúc 4 giờ sáng, không hiểu có nên mở cửa cho người lạ, trên thân chỉ đơn cộc chiếc quần ngủ, đang la lớn qua khung cửa.

Chú thích:

(1) George Orwell, As I Please: Essays, Journalism and Letters, Sonia Orwell và Ian Angus biên tập, vol. 3 (Boston: Nonpareil Books, 2000), 241

(2) Maurice Blanchot, The Writing of the Disaster, Ann Stock dịch (Lincoln: University of Nebraska Press, 1995), 110

(3) John Berger, And Our Faces, My Heart, Brief as Photos (New York: Vintage Books, 1991), 95

(4) Czesław Miłosz, The Witness of Poetry: The Charles Eliot Norton Lectures, 1981–82 (Cambridge: Harvard University Press, 1983), 4

vi lãng trích dịch từ Words for War: New Poems from Ukraine, Oksana Maksymchuk & Max Rosochinsky biên tập, Academic Studies Press xuất bản.

 

Ilya Kaminsky



Ilya Kaminsky là tác giả của tập thơ nổi tiếng Deaf Republic, được The New Yorker cho là có “trí tưởng tượng sâu sắc” và đã lọt vào vòng chung kết Giải thưởng Sách Quốc gia về Thơ năm 2019. Ông cũng là tác giả của Dancing In OdessaMusica Humana. Thơ ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và sách của ông đã được xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hà Lan, Nga, Pháp, Mễ, Macedonia, Romania, Tây Ban Nha và Trung Quốc. Kaminsky mất gần hết thính giác vào năm 4 tuổi. Những năm cuối thập niên 1990, Kaminsky đồng sáng lập Poets For Peace, một tổ chức tài trợ cho các buổi đọc thơ ở Mỹ và nước ngoài. Ông hiện giữ ghế Giáo Sư Bourne về Thơ và là Trưởng Khoa Poetry@Tech tại Georgia Tech.

Articles by Ilya Kaminsky

Comments


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

@2006-2025 damau.org ♦ Da Màu Magazine
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)