Home » Biên Khảo, Nhận Định Email bài này

Trần Mộng Tú, một dòng thơ tuôn chảy ngoài quê hương

0 comment ♦ 4.12.2025

 

 

Thơ Trần Mộng Tú là một hiện tượng trên thi đàn hải ngoại, hiện tượng là vì dòng thơ này trải dài suốt 50 năm của nền văn học hải ngoại, không hề ngưng nghỉ; một dòng thơ khi thì thổ lộ tâm tình của một người nữ giàu tình cảm, khi thì hướng về ngoại giới để vui buồn theo mệnh nước nổi trôi.

Ngôn ngữ thơ của Trần Mộng Tú không uyên bác, không cầu kỳ, kiểu cách. Lời thơ của Trần Mộng Tú giản dị, hồn nhiên như thỏ thẻ tâm tình bên tai người đọc, kể lể buồn vui của cuộc đời.

Điều gì đã khiến một người nữ sáng tạo một dòng thơ qua những thử thách cũng như những cái đẹp của cuộc đời trong hơn nửa thế kỷ?

Câu hỏi này đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả. Những bài học thuộc lòng trong lớp cho cô bé Trần Mộng Tú cảm thấy cái đẹp của thơ văn, và sự say mê khởi đầu từ đó, rồi càng lớn những bài thơ học thuộc lòng càng nhiều hơn. Xảy ra một sự kiện giúp cô bé đi xa vào thế giới văn chương. Khi đất nước vừa chia đôi, gia đình Trần Mộng Tú di cư vào Nam. Trong khi còn ở tạm dưới những căn lều dành cho người di cư, thì hành lý của gia đình bị thất lạc, thay vào đó là một bao tải đầy sách, không rõ của ai. Người sung sướng nhất là cô bé Trần Mộng Tú 11 tuổi, tình cờ được hưởng cả một kho tàng sách. Và cứ thế nỗi say mê văn chương lớn dần với tuổi đời, cho đến một ngày kia cô gái bắt đầu làm thơ. Nguồn sáng tạo đã thành hình.

Sống trong thời chiến, con người dễ gặp nguy cơ, hoạn nạn. Đó là trường hợp của Trần Mộng Tú. Đang tuổi thanh xuân, lòng mơ ước một tương lai tươi đẹp, thì chiến tranh tràn đến, cướp mạng sống của người yêu, người chồng, chấm dứt một cuộc hôn nhân ba tháng. Trần Mộng Tú đau xót, chỉ biết tìm đến chữ nghĩa để than khóc, để nói lên tình yêu và nỗi thương tiếc chồng:

Không bao giờ em quên
đường ba trăm cây số
em đi nhận xác anh
với trái tim thống khổ

Không bao giờ em quên
chiếc quan tài màu vàng
lá cờ ba sọc đỏ
anh nằm im lìm đó
chẳng một lời sau cùng.
(Huyệt Mộ)

Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh
(Quà Tặng Trong Chiến Tranh 7/1969)

Trần Mộng Tú cho khắc trên mộ chồng, nơi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi – thời còn nghĩa trang này – bốn câu thơ như sau:

Áo cưới chàng may còn mùi vải
rượu hồng thiếp uống còn cay môi
xa nhau một phút ngàn thu vắng
nỗi buồn này biết làm sao nguôi

Trần Mộng Tú không nhớ đã làm những bài thơ đầu tiên vào lúc nào, nhưng chắc chắn những bài thơ đến với độc giả khởi đầu từ năm 1969, năm xảy ra sự mất mát lớn trong đời.

Kể từ đó, nguồn sáng tạo của Trần Mộng Tú ngày càng dồi dào hơn, phong phú hơn, để ngày nay trở thành một dòng thơ tuôn chảy không ngừng.

 

I. Ba chủ đề trong thơ Trần Mộng Tú

Có thể nói, chiến tranh là điểm xuất phát nguồn thơ của một tâm hồn vốn đã say mê văn chương, và nguồn thơ đó được hình thành, mở rộng quanh ba chủ đề: mất mát, cô đơn trên xứ người và tình yêu muôn thuở.

 

Những mất mát lớn trong đời

Mất mát tình yêu, hôn nhân, nhưng dư âm của chia ly và nỗi nhớ nhung vẫn còn đó:

Tôi xa người nắng buồn trên vai
Môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi
Người xa tôi một dòng sông trắng
Dãy núi bên kia có ngậm ngùi

Tôi xa người như xa quê hương
Những dấu thân yêu mất cuối đường
Người nhặt hộ tôi hoa dĩ vãng
Lau giùm dòng lệ ở vết thương

Người xa tôi gió cũng lặng thinh
Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình
Người như suối chảy qua rừng vắng
Cả một dòng sông đứng lại chờ.
(Cả Một Dòng Sông Đứng Lại Chờ)

Bên cạnh mất mát riêng tư, có một mất mát vô cùng lớn lao: mất mát quê hương.

Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng
Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng
Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng
Một dân tộc vừa ly khai dân tộc 
(Pendleton, California, 21/4/1975)

Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
em tủi như chim khuyên
khóc trong lồng son mới
(tháng 7/1975)

Tình hoài hương làm nặng lòng kẻ ra đi:

Mỗi độ xuân về tôi nhớ lắm
những ngày xuân cũ trên quê hương
nhớ người tình cũ, ngôi chùa cũ
hoa mẫu đơn nở đỏ bên tường

……

Quê hương xa
thật là xa
dòng sông
ngọn núi
chỉ là chiêm bao.

……

Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt
khói có bay về tận cố hương
vườn người, tôi chiết cành xuân thắm
nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn.

Trong ký ức của kẻ ra đi, tháng Tư được khắc sâu như một dấu hiệu của mất mát, của chia ly:

Em nằm im lặng nghe đêm thở
Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm
Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc
Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen
……

Anh ạ, tháng Tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.

 

Cô đơn trên xứ người

Ngay lúc mới đặt chân đến xứ người đã có những ngỡ ngàng buốt lạnh, khiến tâm hồn cảm thấy lạc lõng:

Khi tôi đến… Ôi! một tôi đổi khác
Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân
Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm
Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn

Và lạc lõng giữa những người khác chủng tộc:

Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhoà.
(tháng 7/1975)

Khi cuộc sống đã ổn định trên xứ người, gia đình đầm ấm, vẫn có một nỗi cô đơn ray rứt tâm hồn, không chia sẻ được với ai:

Chúng tôi ở Bellevue
hai người một căn nhà hạnh phúc
hai người cùng chung một đất nước
chỉ có một tôi hay buồn
chỉ có một tôi ôm nỗi nhớ quê hương.

……

đêm đêm
khi ngọn đèn đã tắt
chàng ngủ say cùng những
vị á thánh và những anh hùng
nàng thức dậy
ôm trái tim cô đơn
của người tạm trú

……

Em cô đơn
như một thân cây
còn sót lại sau đám cháy rừng
chung quanh em
những tàn tro lạnh ngắt…
(Cháy Rừng)

 

Tình yêu muôn thuở

Trong ngôn ngữ tình yêu của Trần Mộng Tú chỉ có người nữ lên tiếng với người yêu. Nhìn từ phía người nữ thì tình yêu muôn mặt, muôn màu, đủ cung bậc.

Trước hết, tình yêu không bao giờ chết, một trong những bài thơ có tính biểu tượng mang tựa đề “Xuân thơm như mật,” nói về người nữ bị chôn vùi dưới tuyết, được người yêu đến gạt tuyết và đưa ra ngoài để cùng nhau hưởng một mùa xuân thần tiên.

Tình yêu không có định nghĩa, hãy cứ yêu, không cần tìm hiểu.

Tình yêu được ví với một chùm nho nguyên vẹn:

Có người nói với em tình yêu giống như một chùm nho
mỗi lần yêu là mỗi lần mất đi một trái…

Khi anh đến
anh có mang cho em
một chùm nho mới
một chùm nho chưa mất một trái nào.
(Hợp Lưu số 87)

Tình yêu đắm đuối:

Anh ôm em
bằng nguyên cả vòng tay
cho em nếm
mùa xuân trên môi
nhìn cánh chim bay
trong mắt
ngực anh loang mùi rượu
hoàng hoa
cho em thở hơi xuân chất ngất
(Khu Vườn Mùa Xuân)

Tình yêu vội vàng vì thời gian quá ngắn ngủi:

Hãy yêu nhau ngay bây giờ
đừng đợi ngày mai
vuốt tóc trắng rồi ước gì ta trẻ lại… Yêu đi anh!
nụ hôn em còn nồng
ly rượu còn đầy
mặt trời còn đó…
(Rượu Còn Đầy, Mặt Trời Còn Đó)

Tình yêu không đem lại thỏa mãn:

Đêm qua trở gối nghe mưa
Tình như chăn hẹp không vừa ấm tôi
Co hoài vẫn hụt một nơi
Tôi kéo vuông chiếu buông rơi đóa sầu
(Mưa Seattle)

Tình yêu mong manh:

Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng
làm sao em giữ được đến buổi chiều
(Thời Gian Và Tình Yêu)

Tình yêu đem đến mãn nguyện:

Hồn em giờ rất lạ
Một chiếc bình đầy anh
(Hồn Em Giờ Rất Lạ)

Tình yêu không có tuổi:

Anh sẽ đến buổi chiều hay buổi sáng
Ngày hôm nay hay ở thế kỷ sau
Em vẫn đợi vì tình yêu không tuổi
Người yêu ơi! Anh đến tự hướng nào.
(Thời Gian Và Tình Yêu)

Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú như những nốt nhạc có đủ cung bậc trong một tấu khúc.

 

II. Những nét đẹp trong thơ Trần Mộng Tú

Thông thường một nhà thơ hướng sự sáng tạo cái đẹp theo mỹ cảm của mình. Trong trường hợp Trần Mộng Tú, mỹ cảm tạo nên hai hình ảnh: hình ảnh một thế giới được thi vị hóa và hình ảnh bất biến của một dòng sông.

Trần Mộng Tú dùng một phương pháp tu từ gọi là nhân cách hóa để thi vị hóa thế giới quanh mình. Theo đó, thiên nhiên, thảo mộc, bốn mùa, đồ vật, v.v. trở nên gần gũi, thân mật với con người:

Cũng có lúc tôi hôn lên vách núi
Đứng lặng yên nghe tiếng núi thầm thì

……

Biển căng ngực và núi rền tiếng thở

……

Núi cúi đầu khoanh tay
ngắm đóa sen vừa nở
(Cõi Ngoài)

……

Những chiếc lá cháy sém
cúi nhìn dĩ vãng
(Cháy Rừng)

……

hoa tỷ muội cười
ròn rã trên vai em
mặt trời hồng hôn lên
cả hai bên má

……

Tuyết đứng ngoài hàng rào
ngó qua khung cửa sổ
có tiếng khúc khích cười
của những thanh củi nhỏ
(Mùa Đông)

……

Nắng trẻ hơn tuổi em nhiều
chạy đuổi nhau qua triền dốc
Những con ong kêu vang vang
mùa hè cười trong mái tóc
(Mùa Hạ)

……

Mùa thu đang gõ cửa
Mở đi anh… cánh rừng.
(Thu Khúc)

……

Những đôi giầy ngước mắt nhìn chờ đợi
Thầm thì bảo nhau chắc đến phiên mình
(Chuyện Của Đôi Giầy)

Hình ảnh thứ hai do mỹ cảm của tác giả tạo nên là hình ảnh một dòng sông. Đôi khi tác giả dùng lối ẩn dụ để gợi lên hình ảnh này:

Em hí hoáy làm thơ trên xa lộ
Dòng sông xe ngừng chảy giữa buổi chiều…
Em hí hoáy làm thơ trên xa lộ
Dòng sông xe đọng lại giữa hoàng hôn
(Thơ Trên Xa Lộ)

Đọc thơ Trần Mộng Tú ta thường thấy lấp lánh một dòng sông:

Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng
Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa

……

Con sông chảy cả một thuyền quá khứ
Trong mắt em ngơ ngác đám lục bình
(Ngọn Nến Muộn Màng)

……

Em ngước mặt uống ngụm trăng thơm ngát
Dòng sông đêm bên dưới vỗ chân quen
Anh cúi xuống uống giọt sương trong mắt
Đất rùng mình chim đập cánh bay lên
(Sông Đêm)

……

Tháng sáu mở ra một nhánh sông
Con trăng mùa Hạ chìm dưới đáy
Em thả xuống nước cọng cỏ xanh
Dòng sông trăm năm chỉ là mộng…
Tháng sáu duỗi mình vào mùa Hạ
Gió thổi hoa lau bay mang mang
Anh theo dòng sông trôi với tình
Em đứng giữa bờ trăng ngơ ngác
(Trăng Và Tháng Sáu)

……

Người như suối chảy qua rừng vắng
Cả một dòng sông đứng lại chờ.
(Cả Một Dòng Sông Đứng Lại Chờ)

……

Tôi ở nơi này cách Việt Nam gần mười ngàn dặm
sao đứng trước cửa nhà vẫn thấy quê hương
thấy trăm con sông nhỏ
sông Nhụê, sông Cầu, sông Thương, sông Đáy
sông Cửu Long, sông Hậu, sông Tiền
những con sông dài, ngắn, nông, sâu
những con sông xanh biếc
nước đã đổi sang màu
nước của ô nhiễm như lòng người ô nhiễm
(Cuối Năm Tự Truyện)

Ngần ấy con sông cũng đủ nói lên mỹ cảm của nhà thơ Trần Mộng Tú. Nhưng sao lại là dòng sông và tại sao hình ảnh đó lại dai dẳng đến thế và trở nên một ám ảnh?

Nếu giải thích theo phân tâm học thì đây là việc làm của vô thức. Freud cho biết con người không có chủ quyền mà chính vô thức điều khiển tất cả. Vô thức hướng tâm hồn của nhà thơ về hình ảnh một con sông. Vậy hình ảnh con sông ngự trị trong thơ Trần Mộng Tú hẳn phải có nhiều ý nghĩa.

Gaston Bachelard (1884-1962), nhà triết học Pháp về khoa học, đã từng nghiên cứu tương quan giữa trí tưởng tượng vật chất của con người với những yếu tố trong thiên nhiên như: nước, lửa, đất, không khí, để phân loại các trí tưởng tượng. Thơ Trần Mộng Tú nói về dòng sông tức nói về nước, và theo Bachelard, nước biểu hiện cho người nữ: vậy thơ Trần Mộng Tú là tiếng nói của người nữ và là một tiếng nói đầy nữ tính.

Nước trong thơ Trần Mộng Tú, ngoài nước của dòng sông, còn có nước mưa, mưa nhiều trong cảm xúc của nhà thơ, và nước mắt vì người nữ này rất giàu nước mắt.

Một ý nghĩa khác của dòng sông: dòng sông có giá trị biểu tượng cho thời gian, nước sông trôi đi như thời gian trôi qua. Trong thơ Trần Mộng Tú có nhiều khắc khoải về thời gian, về tuổi già.

Cuối cùng, chúng ta có thể cùng Trần Mộng Tú ca ngợi cái đẹp của thơ qua ống kính vạn hoa:

Chỉ có thơ là ống kính vạn hoa
ta lắc soi từ thời thơ dại
cho đến tuổi già
vẫn vạn hoa còn đó
trong cái không mầu chứa cả muôn mầu
trong vô ngôn vẽ ra ngàn cảnh giới
(Nỗi Không)

 
Liễu Trương

Articles by Liễu Trương

Comments


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

@2006-2025 damau.org ♦ Da Màu Magazine
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)