Home » 50 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2025), Biên Khảo, Chuyên Đề, Phỏng vấn Email bài này

Phỏng vấn nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (về chuyện Đọc và Viết & về Văn Học Hải Ngoại) – kỳ 1/2

0 comment ♦ 28.08.2025

Bui Vĩnh Phúc - pvVHVNHN 

 

Da Màu: Thưa anh Bùi Vĩnh Phúc, anh vừa là nhà phê bình văn học, nhà thơ, và nhà giáo (GS. về Ngôn Ngữ), vậy các “nhà” này đã cộng tác với nhau ra sao trong tiến trình viết của anh? Các tác phẩm của anh thường tập trung vào những đề tài gì?

Bùi Vĩnh Phúc: Đúng là tôi đã sống trong đời sống trong cả ba tâm thế này, và, không những thế, đã sống thiết thân, hành xử trong cuộc sống mình, trong cả ba vai trò như thế. Chúng không phải chỉ là một thứ “mặt nạ” mà con người phải đeo vào mỗi ngày để sống ở đời. Chúng là một làn da “hít thở” trên con người mình. Như một người Việt sống ngoài đất nước, trong ba cái “mặt nạ” này, chỉ có “mặt nạ” dạy học là đem lại cho tôi một bảo đảm mang tính vật chất: một đồng lương vừa phải (nhưng cũng đủ để sống tương đối thoải mái trong hoàn cảnh riêng của mình), và một cái neo để “trụ” vào và để sống ở đời. Còn hai cái “mặt nạ” kia thì, thật sự, không mang lại được một bảo đảm gì. Ngược lại, chúng lại làm mình mất khá nhiều thì giờ suy nghĩ, mơ mộng, thay vì dùng thì giờ để làm những chuyện “cụ thể và hữu ích” hơn. Như để kiếm tiền chẳng hạn.

Dù sao, cả ba “hướng hành xử” ấy đều giúp tôi giữ lại cho mình cái hơi thở để sống. Bởi vì cả ba đều là mình, tạo nên mình. Rất nhiều khi, trong khi giảng bài hay thuyết trình, tôi chợt thấy con người phê bình của mình sống trong những điều tôi trình bày. Trước sinh viên hay trước thính chúng văn học. Nhưng, cũng có khi, cái hơi thở của một người làm thơ trong tôi lại chen vào những lúc ấy. Theo kinh nghiệm và qua những phản ánh mà tôi nhận được, những sự sống “lẫn lộn” và “dồn dập” ấy thường giúp tôi thực hiện được tốt hơn việc làm của mình.

Thật sự, cả ba “phương vị” ấy đều quấn quyện trong tôi, cho dù tôi thường sống trong đời, qua từng “khoảng sống” một, với một cái sống nổi bật nào đó. Chẳng hạn, có những lúc, hay có những đoạn văn, tôi viết phê bình văn học với ý thức sáng suốt của một “nhà” ngôn ngữ. Với cái học, cái hiểu và cái nhạy cảm của mình trong phương diện này. Nhưng, cũng có khi, cái hơi thở thơ, cái sức sống thơ, lại chen vào trong bài viết, trong cuộc viết. Sự quấn quyện ấy làm nên chữ viết của tôi, cho thấy hơi thở và diện mạo của chữ, của người viết.

Cái sống thơ trong tôi cũng vậy. Thơ có những lúc hoà quyện với lý tính, với cái hạnh phúc được “sống chữ” và được “thở chữ”. Cái sống ấy luôn đối mặt với sự phê bình, trước hết, của chính mình. Cái sống ấy được nhìn ngắm, trước hết, từ kẻ sống nó. Có thể để giữ cho kẻ sống ấy tiếp tục la đà trên mặt đất—nơi vừa có những nụ cười, vừa có những giọt nước mắt, vừa có những niềm đau, những nỗi thống khổ xót xa, vừa có những phút giây hoan lạc và chan chứa hạnh phúc—để cho hắn đừng bay lên, đừng trôi tuột vào mộng tưởng, mà quên mất con người. Quên mất cái thân phận làm người của chính mình.

Với tôi, sống hay viết thì cũng vậy. Viết là một dạng sống. Và sống, nhìn một cách nào đó, cũng là một dạng viết. Tôi viết nên tôi trong sự sống mình. Và tôi đã sống, và viết, quấn quyện, hoà lưu, với chính mình như thế. Ba thế sống, ba tâm thế ấy giúp tôi sống đầy đủ và chân thật với chính con người mình.

Tôi là người “làm” nghiên cứu và phê bình văn học nên hầu hết những cái viết của tôi là ở trong những lĩnh vực này. Dù sao, có những lúc cần giữ cho hơi thở được quân bình, tôi cũng viết tản văn, tuỳ bút, hay làm thơ. Trong 50 năm cầm bút vừa qua, tôi đã viết được một số điều. Cũng có những cái viết làm tôi thích. Nhưng, hy vọng, cái làm tôi tâm đắc vẫn còn ở phía trước.

Da Màu: Các bài phê bình, nghiên cứu và chuyên luận của anh rất sâu sắc, đẹp và mang một “phong khí” thật đặc biệt. Có một quá trình chuẩn bị nào không trong việc anh đi vào lĩnh vực phê bình văn học?

Bùi Vĩnh Phúc: Trong cuộc sống, có những chuyện, nhìn một cách nào đó có vẻ xảy ra ngẫu nhiên. Nhưng nếu được nhìn dưới một góc độ khác, hình như chẳng có chuyện gì xảy ra ngẫu nhiên cả.

Nếu nghĩ rằng, ngay từ lúc khởi sự cầm viết, tôi đã vạch cho mình một con đường để đi vào lĩnh vực phê bình văn học, thì không có chuyện ấy. Tôi thích đọc sách từ bé, đủ mọi loại và đủ mọi đề tài. Dĩ nhiên, chuyện đâm dầu vào sách vở như thế cũng phải có sự yêu thích, đam mê, vì tìm được các loại sách để đọc cũng chẳng dễ trong hoàn cảnh gia đình, xã hội và thời đại lúc tôi lớn lên. Cái thời cuối thập niên ’50 đến đầu thập niên ’70 ấy. Tôi “bị” bố mẹ bắt học thêm tiếng Pháp, rồi tiếng Anh (nghĩ lại thì là “được” cho đi học, nhưng lúc ấy sự bị “đẩy” đi học trước bao nhiêu thú vui đang chờ đợi mình trong cuộc sống—dù chỉ là các thú vui với bạn bè trong xóm, cùng tuổi thiếu niên, rồi là với các bạn học trong tuổi thanh niên—thì thật là một hoàn cảnh rất đáng nản). Tôi bị… mất thì giờ, phần nào, vào việc học. Dù sao, từ nhỏ, tôi vẫn cố để dành chút tiền và la cà ở các quán sách. Mua và đọc đủ thứ. Mua được tờ báo, tập sách (16 hay 32 trang), và, thỉnh thoảng, quyển sách nào, là “rọc giấy” ra xem ngay một ít tại chỗ. Rồi, trên đường từ sạp báo/sách về nhà, vừa đi vừa đọc.

Thuở ấy, làng xóm, đường phố, còn tương đối ít người, ít xe cộ, không như sau này. Tôi cứ vừa đi vừa cắm đầu đọc, khoảng 30 phút, cho tận đến khi về nhà. Trên đường đi, có những đoạn có nhiều cây cối, mùi thơm của cây lá thoảng nhẹ, đôi khi may mắn lại có cả tiếng chim hót trong màu xanh lục êm đềm của lá. Một cuộc đọc “mộng du” như thế thật là “huyền ảo”. Có lẽ cũng giống như một ít người mê mải với “smart phone” bây giờ chăng? Điều đó rất không nên, vì có thể gây ra hoặc gặp tai nạn. Nhưng tôi đã làm như thế. Với sách. Thời còn nhỏ tuổi. Đã lắm lần, trong hành trình “đi và đọc” ấy, tôi đụng vào người trên đường, nhưng hầu hết đều được họ “tha bổng” cả. Sự đụng chạm như thế cũng chẳng làm chết ai! Vì, dù sao, lúc ấy, tôi cũng chỉ là một cậu bé. Một cậu nhỏ có thể đang mơ thành một “chàng lãng tử ôm đàn đến giữa đời” (!) sau này, qua những “bùa chú” của sách vở. Một chú bé con vừa đi bộ vừa mê man đọc sách và có cảm tưởng là mình như đang “đi trên mây”!

Những “bước đi trên mây” ấy, đôi khi, vẫn còn lưu dấu trên đôi giày tôi mang trong những bước đường giữa đời của tôi bây giờ. Dù là điều này đươc nói theo một thể điệu ẩn dụ nào đó.

Lúc bé, tôi còn đổi sách, báo với bạn bè trong xóm. Thậm chí còn đánh bài để “ăn” sách. Tôi có một cái cặp lớn, thường giữ kè kè bên mình, đựng nhiều cuốn sách đủ loại, để chơi trò này. (Thật là “tệ”! Lớn lên, tôi hiểu là mình không bao giờ nên đối xử với sách vở theo kiểu ấy!) Khi lớn hơn thêm chút nữa, tôi chia sẻ sách của mình và mượn sách từ các bạn học.

Bố tôi đọc và nói chuyện được bằng tiếng Pháp. Ông mua nhiều báo để đọc hằng ngày. Lại có nhiều tập san và tuần báo, thuộc nhiều thể loại khác nhau. Có những bài hay tài liệu cần, bố tôi cất giữ vào một chỗ riêng. Tôi thích đọc các truyện ngắn, và đặc biệt các truyện dài—thường là tiểu thuyết lịch sử, xã hội, hay các truyện trinh thám, “võ hiệp kỳ tình”, đăng dài hạn trên các báo hằng ngày này (gọi là các truyện “feuilleton”). Báo ngày nào có thơ, truyện mình thích, tôi ghi nhớ, và cố tình để bẵng đi khoảng chục ngày, rồi sau mới lục trong “kho” báo chí của bố, lấy trộm ra, cất giữ làm “của riêng”. Có những truyện lịch sử phiêu lưu, tôi còn “hăng hái” cắt béng liên tục các kỳ đăng hằng ngày, rồi đính hoặc dán các “mảnh rời” này lại để làm thành một quyển truyện riêng cho mình. Bố tôi có những lúc “phát hiện” ra việc này, mắng cho vài mắng, bắt trả lại vào kho sách báo của bố đa số những tờ báo đã bị tôi lấy làm của riêng. Thế nhưng, đối với những “chỗ lõm” của các truyện dài lịch sử trên các trang báo, vì tôi đã “lỡ tay” cắt phăng đi và cất làm “của riêng” như thế, bố tôi cũng chỉ mắng qua, và không bắt nộp lại, vì thấy tôi học hành vẫn được. Và, có lẽ, vì bố tôi nghĩ các câu truyện lịch sử ấy cũng chẳng gây tác hại gì cho trí óc của tôi, nếu không nói là ngược lại. Ấy là tôi nghĩ thế!

Khi lên khoảng lớp Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ), tôi đã có thể có chút tiền bố mẹ cho và la cà ở nhiều chỗ bán sách cũ, hay những tiệm sách bán giá rẻ (gọi là bán solde, dù là có những quyển rất hay và còn mới). Tôi bắt đầu thực hiện việc xây dựng cho mình một thư viện ra hồn hơn. Càng lớn lên, tôi càng có thêm môt số điều kiện để thu thập sách. Và có thêm sách mới, sách hay, với các thể loại khác nhau. Kể từ năm Đệ Nhị (lớp 11 sau này), tôi nghiêng cái đọc mình sang sách phi-hư cấu đủ mọi thể loại. Và thấy mình càng ngày càng nghiêng về khuynh hướng đọc này. Cả một thời nhỏ và lúc lớn lên, tôi đã có cơ hội khám phá thế giới tưởng tượng của con người với đủ mọi tình tiết đáng yêu, đáng sợ và đáng nhớ, với bao nhiêu hân hoan, hạnh phúc và buồn đau. Thời thanh niên, tuy vẫn còn yêu thích thơ, những truyện ngắn và tiểu thuyết hay, tôi đã nhìn thấy một chân trời khác.

Tôi bắt đầu tìm đọc nhiều sách nghiên cứu và phê bình sau đó. Và các loại sách triết, sử, ngôn ngữ, tâm lý, xã hội, nhân chủng, dân tộc học, văn hoá, và kiến thức tổng quát. Với tôi, đọc như thế giản dị chỉ là để tìm hiểu về cuộc sống thôi. Tôi đọc miên man và liên tục. Cũng bắt đầu thử viết và làm thơ. Đến tháng Tư, 1975 thì tôi đã có một thư viện riêng, khá “bề thế”, bao gồm cả sách tiếng Pháp và tiếng Anh. Trong giai đoạn năm, bảy năm trước khi đến thời điểm đó, tiền đáng lẽ để đi chơi và làm những việc bình thường của thời tuổi trẻ thì tôi đổ dồn vào tủ sách. Một số kiosques bán sách báo ở Sài Gòn cũng quen mặt tôi, vì mỗi tuần cứ một vài ngày tôi lại ra la cà ở đấy để tìm sách mới. Quả là một thời “hương hoa” hạnh phúc với những chân trời mở rộng trước mắt. Cái hạnh phúc của sự đọc, và của sự tìm biết về cuộc đời.

Da Màu: Thế khi sang Mỹ anh có dịp học hỏi, nghiên cứu gì thêm về vấn đề viết, đọc, hay nghiên cứu, phê bình không?

Bùi Vĩnh Phúc: Tôi sang Mỹ vào giữa năm 1978. Ở Mỹ, tôi theo đuổi ngành Ngôn Ngữ. Dù sao, ở những năm undergraduate, vì yêu thích, tôi học để lấy thêm bằng Cử nhân về văn chương Pháp. Được học nhiều về những điều mình thích về văn chương, văn học Pháp. Từ đó, lần mò sang các lớp về phê bình và lý thuyết văn chương đương đại. Cả của Pháp và Mỹ. Đây là những năm học hành thích thú vì mình được tự do và còn nhiều thì giờ. Ngoài những lớp cần thiết cho ngành Ngôn Ngữ, và những lớp đòi hỏi của ngành văn chương Pháp, tôi có thể lấy thêm những môn học nào mình thích. Miễn là đủ sức học và thời khoá biểu không bị tràn, lại có thể xoay sở để làm việc thêm tại trường. Học như thế, có thể chẳng được lợi lộc cụ thể gì, nhưng tôi được tìm vào những gì mình thích. Chính trong giai đoạn này, dù không chủ ý, tôi đã phần nào chuẩn bị cho mình con đường đi vào nghiên cứu và phê bình, lý luận văn học.

Khi học graduate, người ta không còn nhiều thời giờ và hoàn cảnh, như giai đoạn undergraduate, để học thêm nhiều các thứ khác như thế. Nói như vậy không có nghĩa là lúc ấy mình không được học gì thêm. Vẫn có thể, nhưng ta phải tập trung nhiều vào các lớp chuyên môn. Và tâm thế học, không khí học cùng môi trường học thuật, sự trao đổi với các vị giáo sư trong bậc học này khiến ta không còn dễ “bay nhảy” như ở giai đoạn trước. Với tôi, giai đoạn này, tôi vẫn lấy thêm một vài lớp về phê bình vằ lý thuyết văn học mà tôi nghĩ mình nên tìm hiểu thêm. Ngoài vấn đề chuyên môn của ngành học chính, là Ngôn Ngữ, tất cả những cái học trước đó về văn chương, văn học và về đời sống, nhịp sống của con người, của chữ nghĩa văn chương thế giới, không mất đi đâu. Chúng giúp ta nghe rõ hơn tiếng đập của trái tim con người, trái tim thế giới, và nhận diện rõ hơn cái dáng nét của khuôn mặt nhân loại. Chúng giúp ích rất nhiều cho sự trưởng thành và tự tin của ta. Chúng giúp tạo một nền móng để ta bước vào cái học chuyên sâu và sẵn sàng đào xới, lật đi lật lại vấn đề trong sự học. Tất cả những cái đó cần thiết và giúp ích cho ta nhiều trong việc tiếp cận với cái rộng, cái mở và cái mới của sự nghiên cứu và học tập. Ngoài ra, ngay cả những cái học và đọc trước đó ở Việt Nam, thời tôi học trung học và đại học ở nhà, cũng giúp ích cho những cái học sau này của mình. Cái học của chúng ta như những lớp phù sa bồi đắp vào bãi đất của mỗi người.

Hoạ sĩ Trịnh Cung, nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc, nhà văn Đặng Thơ Thơ, nhà thơ Phương Lan,
hoạ sĩ Paulina Đàm, và nhà văn Hồ Như.

 

Da Màu: Anh bắt đầu chính thức đi vào lĩnh vực phê bình, nghiên cứu từ khi nào?

Bùi Vĩnh Phúc: Khi cùng bắt tay làm việc chung để khởi động tạp chí Văn Học (hậu thân của tờ Văn Học Nghệ Thuật trước đó), vào năm 1985, cùng với các anh Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Bá Trạc, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Trịnh Y Thư, và một ít các nhà văn khác nữa, tôi được các bạn tín cẩn và yêu cầu viết các bài phê bình văn học cho tờ báo. Thật ra, trong giai đoạn đầu, ngoài phê bình văn học, tôi còn viết cả những bài biên khảo, nghiên cứu nhỏ về âm nhạc, hội hoạ,, v.v., cho những số chủ đề. Về sau, khi đã tương đối định hình được phong cách rồi, tôi mới đi sâu thêm vào lĩnh vực phê bình văn học.

[ Xin mở một cái ngoặc vuông ở đây. Tạp chí Văn Học, như tôi đã có dịp viết trong một hồi ức văn học của mình, ra đời vào năm 1985, cũng có thể xem là khá sớm trong đời sống và dòng chảy của người Việt ngoài nước, và của văn học hải ngoại. Xin ghi lại một vài suy nghĩ bổ sung này ở đây: “ [K]hi Văn Học ra đời, khoảng mười năm đã qua đi kể từ tháng Tư 1975. Trước đó, không phải là đã không có những nỗ lực văn học và văn chương của người Việt ngoài nước, muốn vực dậy một giọng nói, một tiếng nói, như một hơi thở cần thiết để con người tiếp tục sống còn; nhưng, vì những yếu tố khác nhau của hoàn cảnh, những nỗ lực này, qua những tạp chí văn học hay những tờ báo mang tính văn chương, đã không có cơ may được tồn tại lâu dài, và ghi những dấu ấn sắc nét hơn trong lòng người đọc. Nhưng tất cả những nỗ lực đó đều là những nỗ lực đẹp đẽ và đáng trân trọng, không những đáng được, mà còn cần được, ghi nhận. Cái duyên và cái may cho Văn Học, có lẽ, là do cái thời đã tạo nên nó. Mười năm (1975-1985) có lẽ đã khá đủ cho một sự chiêm nghiệm bình tĩnh và sâu lắng. Và sự có mặt, ở ngoài nước, chỉ mới từ một vài năm trước đó của thêm nhiều nhà văn, trong đó có Nguyễn Mộng Giác, vốn là những người, trước đó, còn ở trong nước. Sự quy tụ của những nhà văn mới đến và những nhà văn có mặt trước đó, đặc biệt từ ngay sau thời điểm 1975, đã tạo tiền đề tốt cho một sự bùng nở (hay bừng nở) của văn học Việt ngoài nước. Tôi nghĩ, cái duyên đó hẳn nằm trong cái thời.” ]

Những cái tôi đã đọc trước đó, và học được nơi nhà trường như đã có dịp nói, giúp tôi phần nào có một cái nhìn và một phương pháp khi đi vào lĩnh vực phê bình. Nhưng, thực sự, chính là qua những sự tự tìm hiểu, học hỏi thêm qua sách vở, báo chí mà tôi tiếp tục bồi tụ thêm cho mình từ giai đoạn này trở đi, mới là những gì đã giúp tôi nhiều. Bởi lẽ, những cái tự học sau này, cộng với một cái nền đã được xây đắp từ trước, cho phép tôi tìm tòi và cập nhật những điều tôi muốn tìm hiểu thấu đáo hoặc muốn đào sâu.. Từ khi sang Mỹ, tôi xây dựng lại một thư viện riêng khác cho mình. Dòng sông học hỏi, dòng chảy kiến thức ở đây mở rộng hơn nhiều so với những cái biết của tôi thời còn ở nhà. Cái học là vô biên. Và càng học, người ta lại càng nhìn thấy biển trời của sự học rộng mở. Đọc và viết cũng là một thói quen. Ta càng làm nhiều, càng đi sâu vào những việc này, ta càng quen biết hơn với những thao tác của nó. Càng dễ nắm bắt được những điều cần thiết cho việc tìm tòi, khám phá mới.

Da Màu: Mong anh kể thêm về thời gian anh cộng tác với Văn Học, về các sinh hoạt và những buổi họp mặt tại toà soạn rất sôi động thời đó với sự tham dự của các văn hữu cột trụ Nguyễn Xuân Hoàng, Võ Phiến, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Đình, Tạ Chí Đại Trường, Mai Kim Ngọc, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Quỳnh Giao, Hồ Như, Phùng Nguyễn, Thạch Hãn… Chắc hẳn anh có nhiều kỷ niệm đáng nhớ về những người bạn văn giai đoạn này?

Bùi Vĩnh Phúc: Đối với tôi, đó là một thời rất đẹp. Cái đẹp của sự ngồi chung, sự gắn bó, sự chia sẻ, tranh luận hào hứng. Cái đẹp của những tia lửa trong các ý tưởng, của hơi ấm tình thân. Và của những tiếng cười.

Tôi đã nói về giai đoạn đẹp tươi và nhiều ánh lửa này trong một hồi ức văn học. Ở đây, có những chỗ, tôi xin phép được đưa vào câu trả lời này một vài điều đã viết trong hồi ức vừa nói. Nguyệt san “Văn Học đã là một dấu mốc, một cột cờ đẹp đẽ của dòng văn chương nghệ thuật ấy. Nó đã là tiếng reo ca và là ánh nắng của tự do—với những hạnh phúc, thiết tha, cùng với cả khổ đau và những hệ lụy của nó, của cuộc làm người Việt bên ngoài đất nước. Từ ngôn ngữ, chúng ta tìm được tâm thức và con người Việt trong những khung cảnh lưu đầy. Và trong những con đường sống mới.”

Tất cả những khuôn mặt, những cái tên mà chị đã nêu ra trong câu hỏi này, và cả một số người khác nữa, đều đã là những hiện diện gần gũi và hạnh phúc của tôi và các bạn khác trong thời gian ấy. Tôi nhớ hoạ sĩ, nhà văn Võ Đình, một lần từ thủ đô D.C. đến chơi, và cùng gặp gỡ, “đối ẩm” với các bạn văn trong căn nhà “ọp ẹp” của anh Giác. Võ Đình ngâm thơ, giọng Huế, rất cảm động và đẹp. Anh ngồi xếp bằng, vững chãi nhưng cũng buông lơi theo nhịp thở và nhịp thơ, cất lên những giọng điệu của một Huế buồn, xưa, cổ kính, đài các, lãng mạn và thơ mộng. Giọng ngâm như có hơi mưa của cái thành phố cổ cũ ấy, và thoáng chút sương mù sáng sớm mùa Đông trên dòng Hương buồn lặng… Cho dù, Võ Đình, từ tuổi thanh niên, đã hầu như sống suốt những tháng năm của anh ở Pháp và Mỹ. Chúng tôi uống nước chè pha đặc sánh, hoặc một chút cà-phê thơm khói. Giống như tại nhà anh Nhật Tiến trong những buổi “họp văn” những năm trước đó. Rồi Võ Đình vẽ. Ký hoạ. Những bức vẽ rất nhanh và đẹp, bằng bút chì, cho các bạn văn. Mấy bức vẽ Cao Xuân Huy, Hoàng Quốc Bảo và Nguyễn Tất Nhiên của anh hôm ấy, là những bức vẽ, theo tôi, đẹp nhất. Tôi cũng được một bức. Sau này, Võ Đình còn gửi tặng tôi nhiều tranh mộc bản (thủ ấn hoạ) của anh. Và tranh mực tàu pha màu nước. Chữ viết của Võ Đình đẹp một cách phóng khoáng, nhưng cũng có những nét cương ngạnh. Võ Đình như thế. Và đã xa đời.

Còn nhà văn, luật sư, nhà lý thuyết kiêm kịch tác gia Nghiêm Xuân Hồng nữa. Ông cũng thường hay đến ngồi chung với chúng tôi trong những lần họp mặt ở nhà anh Giác. Vai trò luật sư Toà Thượng Thẩm và Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng trước 1975 đã rất xa. Ít nói, ông hay nở những nụ cười rất lành như của một vị tiên thoát trần. Mắt sáng, thông minh, và nụ cười luôn có trên môi. Nghiêm Xuân Hồng đã có một thời là người của “Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng” (1957), của “Căch Mạng và Hành Động” (1962), của “Người Viễn Khách Thứ Mười” (1963) mà ông chú thêm tên là “ba hồi hoang ngôn”; rồi đến thời “Từ Binh Pháp Tôn Ngô đến Chiến Lược Nguyên Tử (1965); và bây giờ là thời của “mật tông”. Với “Lăng Kính Đại Thừa” (1982), “Mật Tông và Kinh Đại Thừa” (1986), và bốn quyển “Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc” (1988,1989, 1991, 1992), v.v.. Ấy vậy mà, trong giai đoạn này của họ Nghiêm, tôi lại thích bài thơ rất dài, thật sảng khoái, của ông là bài “Độc Đăng Đài” (1984), gồm ba đoạn. Có lần, ngồi nói chuyện với nhau, tôi cười bảo tôi thích lắm bài thơ “Độc Đăng Đài” của ông.

(… Hắn nghĩ lan man, nhớ tới mấy lời trong kinh L’Ecclesiaste:
“Hư Không của Hư Không …. Tất cả chỉ là Hư Không …”
Nếu vậy, thì những niềm thống khổ kia cũng chỉ là hư không sao ?
Như vậy, thì hơi đâu mà nhỏ lệ than van ? …
Bỗng nghe những nhịp chân chạy lạch bạch
Thì ra một cặp vợ chồng trẻ
Mặc quần ngắn phô cặp đùi phốp pháp
Đương cùng nhau chạy bộ theo kiểu đường trường
Theo sau là một con chó lông xù thỉnh thoảng kêu lên ăng ẳng
Cả bọn qua rồi lại thấy một cô gái đi tới
Giầy vải, quần tím buộc túm mắt cá
Tóc vàng, mắt xanh, môi đỏ
Đôi vú căng phồng dưới làn áo có in mấy chữ Handle with care
Nét mặt mãn nguyện về tấm hình hài
Hắn ngẩn ngơ hồi lâu suy tư về đôi vú của Eva
Rồi bùi ngùi tự hỏi:
Không lẽ hai trái đồi tươi mát ấy lại chính là rừng rậm của khổ đau ?
Không lẽ hai trái cấm địa đàng ấy lại là Không Hư cả sao ! ? (…) )

Thích cái hào sảng và cái thức nhận về cuộc đời của kẻ, được gọi là “Hắn”, trong bài thơ dài này. Ông cười vui và lành, ánh mắt lấp lánh buồn vui như nhìn thấu suốt cả một cuộc đời, nhưng tôi thấy được cái nét hạnh phúc của một con người được hiểu, và đã rũ thoát ấy. Nghiêm Xuân Hồng giờ cũng đã xa.

Nhắc đến nhà lý thuyết họ Nghiêm cũng làm tôi nhớ đến nhà văn hoá, GS. Trần Ngọc Ninh. Bác sĩ Ninh không ở trong nhóm các nhà văn hay có dịp gặp nhau tại nhà anh Nguyễn Mộng Giác, nhưng tôi và bác sĩ Ninh thường có dịp gặp nhau ở những chỗ khác. Ông là GS phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi khoa, Đại học Y khoa Sài Gòn, gần như suốt trong thập niên ’60, và là Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1966-67. Trước khi gặp ông ở Mỹ, tôi đã để ý đến công trình nghiên cứu về tiếng Việt của ông trong hai tập “Cơ Cấu Việt Ngữ”, do nhà Lửa Thiêng in năm 1973 tại Sài Gòn. Năm 1979, nhà xuất bản Việt Nam Hải Ngoại in quyển “Làm Gì?”, một tập luận thuyết mang tính văn hoá, chính trị và lịch sử của ông. Được ký dưới bút danh Trần Lê. Tôi đọc, thấy văn phong mạnh và đẹp, và có những chỗ tâm đắc cùng vài điểm muốn góp ý. Tôi đã viết thư cho ông, và gửi qua nhà xuất bản. Ông đã trả lời và cám ơn nhiệt tình những chia sẻ và góp ý ấy…

Cái đặc biệt bất ngờ để chúng tôi hay gặp nhau là cả ông và tôi cùng yêu mê sách. Tôi đã tình cờ gặp ông lần đầu, và sau đó mấy lần nữa như thế, ở một chỗ bán sách và đồ đạc cũ. Trong khoảng hai năm giữa thập niên ’80, tôi đã gặp ông ở chỗ ấy khoảng ba hay bốn lần. Tôi đi lục lọi sách cũ đã đành, bác sĩ Trần Ngọc Ninh, quần áo chỉnh tề, đôi khi lại có thắt cà vạt, lại cũng đến những nơi “bụi bặm” và rất “bình dân” để lục tìm sách. Có lần, một tiệm sách cổ ở Quận Orange, Calif., chuyên bán những quyển sách quý và hiếm, rao bán “hạ giá” sách để đóng cửa tiệm. Và tôi đã tìm đến vào ngày hẹn được rao. Tôi đến trước giờ tiệm mở cửa, để mong “bắt” được những quyển sách quý và hay. Đến nơi, tôi thấy có vài ba vị mê sách cũng đã có mặt, đứng chờ ở đấy. Và tôi lại thấy bác sĩ Trần Ngọc Ninh. Ông và tôi như “bắt” được nhau, rất vui, và, sau đó, đến giờ mở cửa, cùng vào tìm sách. Ngoài một lần gặp nhau trong một buổi thuyết trình chung, giáo sư TN Ninh và tôi thường hay chia sẻ ý kiến về sách vở ở những nơi đi lục tìm sách như thế. Ông cũng vừa ra đi vào năm nay, 2025, thọ 103 tuổi.

Dù quen biết với Văn Học, chị Quỳnh Giao gần như không hề có mặt trong những buổi gặp gỡ của “văn nhân” (mà đa số là phái nam) tại “toà soạn” báo Văn Học. Trước khi dọn xuống Quận Orange (mà người Việt thường hay gọi là Quận Cam), ở California, ca sĩ Quỳnh Giao, người cũng yêu thích văn chương, sống ở thủ đô D.C. Qua văn chương, đặc biệt qua nguyệt san Văn Học, chúng tôi đã quen biết nhau. Có lần lên chơi D.C. thăm các văn hữu, tôi đã được chị quý mến để cho sống tự do, thoải mái một ngày trong “căn hầm” riêng của chị, với đầy sách vở, tài liệu âm nhạc, và các đĩa cùng băng nhạc quý, trong khi chị vẫn phải đi làm. Căn phòng yên và ấm cúng, ánh sáng đẹp, trưng bày nghệ thuật, và tôi đã được nghe những băng nhạc thật hay trong không gian này. Dịp ấy, chị đã tặng tôi cuốn băng “The Four Seasons”, là một tổ khúc mà tôi rất thích của Antonio Vivaldi, do một dàn nhạc giao hưởng Đức trình tấu. Cho dù tôi là thầy Việt Văn, ở Việt Nam trước 1975, của một người em gái chị, tình bạn của tôi và chị QG, chính yếu, cũng là do văn chương đem lại. Chị QG cũng đã xa chúng ta.

Và còn bao nhiêu người nữa. Võ Phiến, mà tôi có dịp thăm ông tại nhà vài lần, với các văn hữu có người ở trong, có người ở ngoài nước, cũng đã ghi lại một tình cảm văn chương đẹp. Tôi cũng còn giữ lại được vài lá thư ông viết cho tôi. Rồi Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn, Thuỵ Khuê, Đặng Tiến, Phan Tấn Hảỉ, Khánh Trường, Trần Vũ, Trúc Chi, Trương Vũ, Trần Hữu Thục, và Mai Kim Ngọc, Ngô Thế Vinh, Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Phạm Phú Minh, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Kiều Chinh, Nguyễn Bá Trạc, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Trịnh Y Thư, Phùng Nguyễn, Thạch Hãn, v.v., cũng là những tình thân gần gũi trong văn chương. Còn Đặng Thơ Thơ và Hồ Như, mặc dù đã viết từ thời Văn Học, Hợp Lưu, nhưng chúng tôi chỉ trở nên thân và gần gũi, gắn bó hơn, sau này, qua diễn đàn Da Màu. Với Đinh Từ Bích Thuý cũng vậy. Tất cả những người cầm bút mà tôi vừa nhắc qua, trong một khía cạnh hay một góc độ nào đấy, đều là những người mà tôi có thể nhìn vào và học được một điều gì đó.

Ấy là những ánh lửa đẹp, và ấm, trong đời. Trong cuộc viết của tôi.

“Ngoài những bạn văn đã từng quen biết nhau và cùng nhau góp phần xây dựng tờ báo, rất nhiều bạn văn mà tôi yêu mến và có được trong cuộc sống sau này là từ diễn đàn Văn Học. Xin được cám ơn tất cả. Tất cả những khuôn mặt, những cái tên, những con người ấy đã góp phần, cùng với những người cầm bút khác nữa, làm nên những ngọn sóng, những dấu ấn, và làm nên cái diện mạo văn học chung của cả một thời. Rồi từ đó, từ những bạn văn trên Văn Học, hay từ những nối kết cách này hay cách khác dính líu đến Văn Học, tôi lại có được thêm bao người bạn đáng quý khác. Biết bao nhiêu ân tình đẹp đẽ và thiết tha đã được nẩy nở từ một tờ báo.

Từ trái: Võ Đình & một người bạn của anh, Hoàng Khởi Phong, Trương Vũ (Trương Hồng Sơn)
và phu nhân (chủ nhà), Nguyễn thị Hoàng Bắc, Bùi Bảo Trúc, Bùi Vĩnh Phúc, và Nguyễn Mộng Giác
[ Washington, D.C., 1989 ]

Chúng tôi nhớ lại, qua những năm cùng ngồi làm Văn Học với nhau, đã có biết bao nhiêu hội ngộ văn chương đẹp đẽ, bao nhiêu tài năng đã xuất hiện và được độc giả yêu mến, quý phục, bao nhiêu tác phẩm đã được hình thành và ở lại trong lòng người đọc. Tất cả những điều đó là cái đẹp mà văn chương đã mang lại, mà chúng ta đã trao tặng cho nhau, giữa những người viết, cũng như giữa người viết và người đọc.

Ngoài một số lần chúng tôi đi chơi chung, hoặc cùng nhau tham dự, ở những thành phố hay tiểu bang xa nào đó, trên Washington, D.C. chẳng hạn, những buổi ra mắt sách hoặc cùng gặp bạn bè, thân hữu văn học, những buổi gặp gỡ của tôi với anh [ NM Giác ] thường là tại nhà anh, cũng là tòa soạn của diễn đàn Văn Học trong nhiều năm trời. Về mặt địa lý, chúng tôi ở gần nhau, cho dù thường không sống chung trong một thành phố; tôi lại thường cùng anh, trong một thời gian khá dài, đọc và chia sẻ những niềm vui từ những sáng tác của các thân hữu và những người viết xa gần—tin tưởng tờ báo và gửi những bài viết, những tác phẩm của mình cho Văn Học—nên tôi thường có dịp ghé qua “tòa soạn” để, phần nào, giúp lo cho tờ báo, phần khác, chia sẻ những tin tức văn nghệ và thăm hỏi về cuộc sống của nhau.”

Nhớ Văn Học là nhớ cả một thời. “Là nhớ những buổi họp mặt ở những “quán văn”, những “lều văn” khác nhau trong suốt gần 25 năm văn chương viết lách. Là nhớ những câu chuyện văn chương, văn học được mang ra chia sẻ, những “kế hoạch” văn chương được xây dựng, được “lên khung”, và rồi được hay bị xóa đi làm lại (hay bị vất bỏ luôn vào những garage ký ức). Là nhớ bao hăng say trong những “việc văn” được giao phó, những mổ xẻ, thậm chí những tranh luận gay gắt, vì lý do này hay lý do khác. Là nhớ những trăn trở về đường hướng làm việc giữa một cộng đồng mỗi ngày mỗi phát triển lớn mạnh cùng với những phức tạp của nó, giữa những dòng chảy văn học, những trào lưu văn chương của thế giới mà cuộc sống ở ngoài nước, tuy nhiều khó khăn vất vả, nhưng cũng tạo cơ hội cho người viết nói chung, và cho chúng tôi nói riêng, được tiếp cận, học hỏi, suy nghĩ và thẩm thấu.

Nhớ bạn là nhớ cả một thời. Một thời có nhau. Một thời “bay nhảy”. Một thời lý tưởng và hăng say. Một thời thiết tha và học hỏi. Và một thời trên môi ta, dù tuổi tác thế nào, vẫn luôn có sẵn tuổi trẻ và một nụ cười.

Tuổi trẻ để lăn lộn. Và nụ cười để xóa bỏ đi tất cả những dị biệt, những hiểu lầm, những khó khăn trên con đường hay trên cái đích mà mình nhắm tới. Tuổi trẻ để ta không ngại, không sợ. Và nụ cười để ta thả đi tất cả như mây bay.”

Da Màu: Xin cám ơn những hồi ức rất đẹp và thiết tha của anh. Theo anh, có phải biến cố 30/4/1975 là nguyên nhân phát sinh ra Văn Học Hải Ngoại? Nếu có thể, mong anh nêu lên vài đặc tính của Văn Học Hải Ngoại.

Bùi Vĩnh Phúc: Cũng có thể nói như thế. Trước cái mốc này, ta cũng đã có những người Việt, những nhà văn Việt sáng tác ở ngoài nước. Nhưng những sáng tác riêng lẻ ấy chưa đủ tạo thành một dòng văn học để có được một định danh rõ ràng và cụ thể. Chỉ sau biến cố vừa nói, với các cộng đồng Việt Nam được xây dựng dần dần trên khắp thế giới, và với những tờ báo tiếng Việt, dù còn non trẻ cả về mặt kỹ thuật, mỹ thuật, và dù còn non yếu về mặt bài vở, văn học hải ngoại đã từng bước được tạo lập.

Vào khoảng trên dưới mười năm sau cột mốc này, với sự có mặt của thêm nhiều nhà văn Việt ra khỏi nước, với lòng yêu thương tiếng Việt, văn chương và văn hoá Việt trong cộng đồng người Việt tỵ nạn, với phẩm chất tốt đẹp hơn cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật của hệ thống báo chỉ, với số lượng người viết đông hơn, với sự sáng tác thơ văn và các tác phẩm được in thành sách trở nên nhiều và đều đặn hơn, một dòng văn học Việt bên ngoài đất nước đã được định hình một cách rõ nét. Nhận bắt ngay được những tín hiệu này, vào tháng Sáu, 1988, tôi đã có một bài viết với tựa đề là “Một Cách Nhìn về Mười Ba Năm Văn Chương Việt Ngoài Nước (1975-1988)”. Đây là một nỗ lực phân tích, nhận định đầu tiên và có hệ thống, xét về mặt địa lý cả ở bên ngoài và bên trong Việt Nam, như được nhận xét, xác định về sự hiện diện của một dòng chảy văn chương bên ngoài đất nước. Từ đó, sau những chu kỳ 20 năm, 25 năm, 30 năm, v.v., ở ngoài nước, ta lại có được những bài nhận định, phân tích, và, một phần nào, đánh giá những thành quả của dòng văn chương Việt bên ngoài đất nước, của những tác giả/nhà phê bình khác nhau, có thể tạm kể như Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Hưng Quốc, Thuỵ Khuê, Nguyễn Vy Khanh, v.v.. Dòng văn học ấy, bây giờ, có thể nói là được sự đồng thuận bởi sự sử dụng và định danh qua thời gian, được gọi tên là dòng văn học hải ngoại. Cái tên đó xem như đã đứng được với thời gian. Vì nhiều lẽ. Một phần cũng có thể là do thuận tai và được sử dụng nhiều qua dòng thời gian.

Ở những bước đầu, có nhiều ý kiến đóng góp vào sự định danh của dòng văn học này. Như Văn Học Di Tản, Văn Học Di Dân, Văn Học Lưu Vong, Văn Học Hải Ngoại, Văn Học Ngoài Nước, v.v.. Ba cách định danh đầu dần dần mất đi tính thích đáng vì chúng không phản ánh thật đúng tình thế người Việt có mặt ở ngoài nước, theo dòng thời gian, sau 1975. Hoàn cảnh và tâm thế di tản, di dân, và lưu vong, theo thời gian và cuộc sống xã hội, cũng như tâm thế sống của người Việt, đã mang những màu sắc và âm vọng khác. Đặc biệt là sau sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989, và sự giải thể của CS Liên Xô năm 1991.

Cái tên “Văn học hải ngoại” nghe thuận tai, và có ý kiến cho rằng “hải ngoại” nghe “sang trọng”, vì là từ Hán-Việt. Dù sao, trong lịch sử, chúng ta đã sử dụng những nhóm từ “Đàng Ngoài” và “Đàng Trong” cho những dòng văn học miền Bắc và miền Nam thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (đôi khi còn được gọi tên là “Văn học Bắc Hà” và “Văn học Nam Hà”). Chúng ta cũng thường dùng danh ngữ “Văn học trong nước” mà không dùng “Văn học quốc nội/hải nội’. Cách dùng của cụ Phan Bội Châu thời xưa với “Hải ngoại huyết thư” có lẽ cũng là một gợi ý cho nhóm từ “Văn học hải ngoại”. Nhưng ta không dùng theo đúng từ pháp Hán, là Hải ngoại văn học, theo cách cụ PBC đã dùng với “Hải ngoại huyết thư”. Hải ngoại văn học nghe khá cổ cũ và mang chứa một âm vang như từ trong quá khứ. Ta dùng lật lại, “Văn học hải ngoại”, theo từ pháp tiếng Việt. Cách dùng như thế giúp cho âm điệu của cả danh ngữ này nghe nhẹ nhàng hơn.

Còn đối với danh ngữ “Văn học ngoài nước”, tôi cảm nhận được sự rung động của thân tâm với chữ “nước”. Nó tạo được nhiều hàm nghĩa, gắn bó với cội rễ, gốc nguồn mình. Cho dù nó là tiếng Nôm. Qua sự phát âm, tôi nhận được những rung chấn cả ở tâm hồn và thân xác mình. Nó mang chứa một âm điệu xưa cũ và mộc mạc, gắn bó nhiều với những tình tự quê hương. Nguyễn Du từng có câu “Thôn ca sơ học tang ma ngữ” [Tiếng hát nơi thôn xóm (làm cho ta) bước đầu học được tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai”]. Những tiếng hát, tiếng nói quê mùa, dân dã đã khắc sâu vào lòng ta những lời nước non thân thiết. Làm ta nhớ đến bài thơ “Thề Non Nước” của Tản Đà. Chữ “nước” cũng có thể gợi nhắc đến hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Hai câu này lại đưa dẫn ta đến với cáicon, hai chữ Việt đầy biến hoá và mang sức nặng ngữ nghĩa trong ngôn ngữ dân tộc.

Bàn qua về hai lối nhìn, hai cách định danh thế thôi. Nhưng cái tên “Văn học hải ngoại” đã được dùng quen. Bây giờ, nó gắn bó và khơi dậy những gì thân thiết với người Việt xa nhà, và với cả một dòng sống chảy tràn và vượt qua bao bão táp. Nó đã là một phạm trù lịch sử.

Về một vài đặc tính của văn học hải ngoại (và về cả sự định danh của dòng văn học này), là một người tham dự vào dòng văn học ấy trong suốt chiều dài của nó, tôi đã có dịp trình bày khá kỹ, ở bài nhận định nói trên, hiện vẫn có thể tìm được trên một số trang báo mạng, nên xin được miễn trình bày thêm ở đây. Những đặc tính ấy có thể thay đổi ở một mức độ đậm nhạt nào đó, căn cứ vào hoàn cảnh sống, tâm thế sống của người Việt từ năm 1988 đến nay. Dù sao, ta có thể lắng nghe thêm những suy nghĩ và nhận định của nhiều người cầm bút khác.

 
(Còn tiếp một kỳ)

Articles by Bùi Vĩnh Phúc

Comments


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

@2006-2025 damau.org ♦ Da Màu Magazine
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)