TRỊNH CÔNG SƠN – MỘT NGƯỜI THƠ CA – MỘT CÕI ĐI VỀ là tên một cuốn sách xuất hiện trên thị trường chữ nghĩa cả nước vào trung tuần tháng 5 năm 2001. Sách do nhà xuất bản Âm nhạc thuộc Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, do các ông Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến biên soạn. Sách in trên giấy trắng, bìa tốt, dày 520 trang, khổ 14,5 x 20cm, giá bán 63000 đồng.
Cứ như sự tình ấy và sau khi nhìn một lượt từ đầu đến cuối sách, người đọc chia thành hai phần công việc: Sưu tầm và biên soạn.
— Phần sưu tầm chiếm gần hết khối lượng trang sách (506/520) chiếm 97,3%
— Phần biên soạn gồm 14 trang chiếm 2,7%
Ngoài các bài sưu tầm hay biên soạn, sách còn có một số (dưới 40) ảnh chụp Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn với bạn bè hay đồng nghiệp, ảnh chụp tranh vẽ của Trịnh Công Sơn, ảnh chụp ký họa chân dung Trịnh Công Sơn của ba họa sĩ. Đặc biệt là ảnh chụp hai người đàn ông một trẻ một già, một ta một tây. Người trẻ đẹp trai mặt chữ điền, ăn mặc bảnh bao. Người già có nụ cười cởi mở, ăn mặc đơn giản. Dưới ảnh có chú thích: Trịnh Công Sơn – vua hề Charlot, Huế 1959.
Người đọc xin giới thiệu trước phần biên soạn. Nói là biên soạn là nói theo các ông Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến, chứ thực tình dùng chữ biên soạn ở đây là cưỡng từ đoạt ý.
Ngoài 10 trang mục lục, các ông Nguyễn – Đoàn còn viết 4 trang khác gồm mấy dòng không tên ở trang 4, lời ngỏ, tiểu sử, tên tác phẩm ở trang 5, 6 và 8. Toàn bộ phần biên tập chỉ có thế.
Mấy dòng không tên và Lời ngỏ nếu gộp chung lại cũng không hại gì. Ở đây các ông Nguyễn – Đoàn muốn nhắn gởi đến tác giả các bài được chọn in ở phần sưu tầm, và đến độc giả mấy điều sau:
— Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ thiên tài.
— Quan hệ bạn bè giữa Trịnh Công Sơn và các ông Nguyễn – Đoàn.
— Trịnh Công Sơn mất đi là một mất mát lớn
— Làm sách là hành động thắp hương cho Trịnh Công Sơn
— Ban biên tập có lời xin các tác giả có bài được chọn in xí xóa nếu chưa hoặc không liên hệ được. Chắc là không.
— Xin độc giả lượng thứ vì sách không thể không sai sót do thời gian làm sách quá cấp bách
— Ký tên nhóm biên soạn – hai mươi hai ngày sau khi Trịnh Công Sơn qua đời (ngày22/4/2001).
Người đọc lấy làm kinh ngạc khi đọc đến phần tiểu sử và tác phẩm Trịnh Công Sơn không quá 200 từ. Có thể tìm thấy tiểu sử này trên nhiều tờ báo hoặc trên thông báo của hội âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh nhân đám tang Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài, người nghệ sĩ đã để lại cho công chúng một sự nghiệp đồ sộ, một nguời sinh ra, lớn lên, học hành, đã sống và sáng tác, đã tiến thoái lưỡng nan trên đất nước nô lệ, chia cắt, chiến tranh, nghèo đói, chết chóc rồi Độc lập, Hòa bình, Thống nhất. Người mà hơn bất cứ một nghệ sĩ sáng tác nào ở miền Nam ( ngoài Phạm Duy), đã để lại cho công chúng yêu âm nhạc những tác phẩm không nhiều thì ít đều phản ảnh nhiều mặt của tâm hồn nghệ sĩ, trí thức đô thị gần nửa thế kỷ. Người mà để tiếp cận với cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của ông – người đời sau và nhất là các nhà nghiên cứu, không thể không biết đến dấu tích của một vùng đất đã sản sinh, nuôi dưỡng, vun đắp nên ông, cùng những biến cố trọng đại của miền Nam, của đất nước trong cuộc đụng đầu khốc liệt mà mãi cho đến ngày nay, hơn một phần tư thế kỷ trôi qua sau ngày cuộc chiến chấm dứt, chỉ trong giới hâm mộ Trịnh Công Sơn thôi cũng đã không thống nhất được cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá quá khứ.
Để tỏ lòng ngưỡng mộ, để biết ơn và nhớ tiếc một người như thế, nhóm biên soạn nhân danh là bạn bè, là đồng nghiệp của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đã biên soạn cuốn sách dày hơn 500 trang mà phần tiểu sử không hơn một bài tập về nhà của một học sinh trung học cơ sở (môn văn). Khi mới hôm qua thôi, họ còn chơi bời, đàn đúm với Trịnh Công Sơn, và hôm nay trên bàn biên soạn của mình các nhà chủ biên Nguyễn – Đoàn có được một khối lượng không nhỏ các tư liệu, các bài viết về ông và của chính ông.
Ngắn gọn và đầy đủ thì còn gì bằng.
Đằng này, ngắn mà không gọn, mà thiếu trước hụt sau, nghèo nàn, đơn giản, quả thật là hoàn toàn bất tiện không những cho người đọc mà còn chẳng hay ho gì cho nhóm biên soạn, cũng như cho người được thắp hương: Trịnh Công Sơn.
Xin cử một thí dụ:
“ Thời niên thiếu học ở Huế, rồi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, lên dạy học ở B’lao (Lâm Đồng), sau đó bỏ hẳn dạy học về sống và sáng tác ở Sài Gòn”
Căn cứ những dòng tiểu sử trên thì Huế, Qui Nhơn, B’lao (Lâm Đồng) không có dấu vết gì đến quãng đời sống và sáng tác của Trịnh Công Sơn cả, mà chỉ có Sài Gòn thôi.
Sự thật như thế nào?
Chẳng cần xử dụng bất cứ tư liệu nào khác, chỉ những bài nhóm biên soạn chọn in ở sách này thôi cũng đủ thấy nội lực của các nhà biên soạn tới đâu:
Cứ như tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài “CĂN NHÀ CỦA NHỮNG GÃ LANG THANG”, Thế Uyên trong bài “CUỘC HÀNH TRÌNH LÀM NGƯỜI vIỆT NAM”, Khánh Ly trong bài “BÊN ĐỜI QUẠNH HIU”, M Nguyễn trong bài “NGƯỜI HẢI NGOẠI NÓI VỀ TRỊNH CÔNG SƠN”, Trịnh Cung trong bài “ NÓI VỀ TRỊNH CÔNG SƠN và cả những bài do chính Trịnh Công Sơn viết thì Huế và Qui Nhơn, B’lao có một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Ướt mi, Diễm xưa, Biển nhớ, Mưa hồng, Hạ trắng, Đàn bò vào thành phố, Khi mặt trời ngủ yên, Tiếng hát Dạ Lan và hàng trăm ca khúc khác, Trịnh Công Sơn đã sáng tác ở Huế, ở miền Trung. Ngoài thời gian ở Qui Nhơn (hai niên khóa) từ sau Ướt mi ra đời (1959), cho đến 1977, tùy theo hoàn cảnh cá nhân, gia đình, tùy theo yêu cầu sáng tác và phổ biến, tùy theo những biến động xã hội (chiến tranh, phong trào học sinh, sinh viên) mà Trịnh Công Sơn lúc thì ở Huế, lúc thì ở Sài Gòn. Ông chỉ rời căn nhà ở trước tòa Tổng (Phan Hạng), căn nhà trên đường Nguyễn Trường Tộ, căn nhà trên đường hai hàng long não ( Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn trọng Tạo, Nguyễn Duy, và rất nhiều tác giả có bài trong sách này) để vào hẳn Sài Gòn từ 1977.
Xin tạm bỏ qua phần biên soạn để đến với phần chính của cuốn sách, phần tuyển chọn, biên tập và sắp xếp các bài viết về Trịnh Công Sơn trong sách này.
Các bài được chọn in sắp xếp thành 4 phần theo thứ tự:
— Phần I có tên gọi: MỘT NGƯỜI THƠ CA, gồm 26 bài viết về Trịnh Công Sơn trước khi ông qua đời của nhiều tác giả như: Văn Cao, Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phạm Duy, Thế Uyên, Khánh Ly và nhiều tác giả khác.
— Phần II có tên : PHÁT THẢO CHÂN DUNG TÔI, gồm 26 bài văn xuôi do Trịnh Công Sơn sáng tác, hoặc trả lời phỏng vấn (do người thực hiện ghi lại)
— Phần III có tên gọi; BIẾT ĐÂU CỘI NGUỒN, gồm 63 bài thơ rút ra từ 63 ca khúc và 3 bản nhạc đầy đủ ( có cả nhạc và lời) của Trịnh Công Sơn.
— Phần IV có tên gọi: MỘT CÕI ĐI VỀ, gồm 55 bài viết, bài thơ của nhiều tác giả nhân cái chết của Trịnh Công Sơn.
Trong tình hình thông tin ngày nay, không ít người mến mộ Trịnh Công Sơn tập hợp được một khối tư liệu như thế. Nhưng với đa số những người mến mộ khác do không có điều kiện hoặc chưa quen công việc sưu tầm cất giữ tư liệu, thì một cuốn sách loại này quả thật là “tôm tươi”. Nắm bắt được tình hình đó, các nhà biên soạn vội vàng làm sách. Cuốn sách dày 520 trang được chuẩn bị và hoàn thành trong một thời gian kỷ lục: Trên dưới hai mươi ngày. (Trịnh Công Sơn mất ngày 1 tháng 4, Lời ngỏ viết ngày 22 tháng 4).
Đến phần tuyển chọn, biên tập, sắp xếp, các nhà biên soạn đã làm như thế nào?
1/ Có đến 50% bài viết về Trịnh Công Sơn được chọn in trong sách này không có xuất xứ, không có ngày tháng khai sinh, chỉ có tên tác giả. Theo chỗ người đọc nghĩ, những bài này thuộc hai loại: Thứ nhất là của bạn bè trao tay, được chọn in là may. Thứ hai: lấy từ một cuốn sách, một tờ báo hay của một người thứ ba nào đó mà không hề có ý kiến của tác giả. “Để thắp một nén hương” cho người nhạc sĩ thiên tài nên công việc phải tiến hành gấp, xin niệm tình tha thứ (trang 4). Lập luận có vẻ hàm hồ quá đỗi, dẫu con nít cũng không lọt tai. Đã là thiên tài, chắc chắn danh tiếng Trịnh Công Sơn và tác phẩm của ông sẽ sống lâu, sẽ đi mãi cùng năm tháng, vậy thì đi đâu mà vội, mà làm gấp, làm khẩn trương cấp bách như chống thiên tai dịch bệnh, hay giặc đến nhà như thế?
2/ Có những bài không những bị cưỡng chọn mà các nhà biên soạn còn tự ý cắt bỏ, lắp ráp, đặt, đổi đầu đề như bài của Thế Uyên ở phần một, bài của Chu Sơn ở phần 4. Có những bài tuy ghi chú xuất xứ ngày tháng khai sinh nhưng : “Đầu đề do chúng tôi (BBT) đặt: bài của Văn Cao, Bửu Ý, Phạm Duy…
Những bài ở phần 1, phần 4 có thể xem như tuyển chọn. Những người làm công tác tuyển chọn đâu có quyền cắt bỏ, lắp ráp, thay tên đổi họ tùy tiện khi không có ý kiến của tác giả? Ngay câu: “đề bài do chúng tôi đặt” (Ban Biên Tập) mới đọc qua có vẻ rõ ràng ngay thật, nhưng suy đi nghĩ lại lại thấy nó trơ tráo, thiếu văn hóa thế nào ấy. Có lẽ nào các nhà soạn giả bảo rằng ta đặt cho cái tên hay ho như vậy mà còn lí sự nỗi gì? Thưa các vị biên soạn, hay dở gì là của chúng tôi, những người đã sản sinh ra nó. Các vị có chữ nghĩa cao siêu gì cũng phải xin phép chúng tôi chứ…? Một tác giả đã nói với người đọc như vậy.
3/ Một số chi tiết liên quan đến tiểu sử Trịnh Công Sơn ở một số bài viết về Trịnh Công Sơn. Ở đây người đọc không hề muốn trao đổi với tác giả các bài ấy. Bởi trao đổi về nội dung dài dòng sẽ vượt qua khuôn khổ một bài đọc sách. Người đọc chỉ muốn thưa với các nhà biên soạn mà thôi.
— Một chi tiết rất quan trọng trong đời Trịnh Công Sơn: Trịnh Công Sơn có bị Nhà nước đưa đi học tập hay không?
Tác giả Nhật Lệ với bài viết khá tầm cỡ trong phần I ở trang 147 có đoạn:
“Sau 1975… trải qua hai năm học tập cải tạo ở Cồn Tiên, vùng đất hoang vu đầy bom đạn, Trịnh Công Sơn có được một thời kỳ yên tĩnh để nhìn lại mình trong các biến động lịch sử”. Thông tin cụ thể này gần giống với câu trả lời phỏng vấn của ca sĩ em ruột Trịnh Công Sơn, bà Trịnh Vĩnh Trinh, trên đài VOA trong một chương trình phát thanh tiếng Việt khoảng hai tháng trước khi Trịnh Công Sơn qua đời: “ Anh Sơn đã bị đưa đi học tập 4 năm ở gần biên giới Lào- Việt”.
Sự kiên cực kỳ quan trọng này sao không thấy các nhà biên soạn viết ở phần tiểu sử? Sao không thấy những người bạn thân thiết của Trịnh Công Sơn như Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Cung… đả động đến. Các nhà biên soạn là ban thân của Trịnh Công Sơn như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Thái Bá Vân, Nguyễn Thụy Kha, Ngô Minh và nhiều người khác nữa, qua bài viết của mình, đã kể lại những lần gặp gỡ, giao lưu, ca hát, uống rượu với Trịnh Công Sơn khi thì ở hội văn nghệ Bình Trị Thiên, khi thì ở nhà Nguyễn Khoa Điềm, khi thì ở nhà Trịnh Công Sơn, khi thì doanh trại Nguyễn Trọng Tạo… vào các ngày… tháng… năm 1975, 1976. Sau 1976 thì Trịnh Công Sơn vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh. Một người dù thiên tài như Trịnh Công Sơn cũng không thể vừa đi học tập cải tạo vừa vui chơi gặp gỡ, giao tiếp với bạn bè trong đời thường, đặc biệt những người bạn ấy đa phần là cán bộ Cọng sản. Vậy thì Trịnh Công Sơn đi học tập vào thời gian nào và vì lí do gì?
Thông tin của Nhật Lệ còn gợi ý cho người đọc mấy băn khoăn sau:
Một là: Một người yêu nước, tài năng, có nhân cách lớn lao như Trịnh Công Sơn mà nhiều tác giả ca ngợi trong sách này, cớ sao nhà nước Cách mạng lại đưa đi học tập cải tạo?
Hai là: Bạn bè Trịnh Công Sơn sau giải phóng đa phần là thành phần Cách mạng như các ông Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Thái Bá Vân sao lại làm lơ khi Trịnh Công Sơn bị bắt đi học tập oan?
Một chi tiết khác cũng liên quan đến tiểu sử Trịnh Công Sơn, cũng ở bài của Nhật Lệ, trang 147:
“ Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 chính Trịnh Công Sơn và một số nhạc sĩ khác hát vang ca khúc NỐI VÒNG TAY LỚN trên đài phát thanh của chế độ cũ, truyền loan tin thống nhất đất nước đến mọi nhà”. Xin được miễn bình luận về mẫu tin này của Nhật Lệ, một trong những người tỏ ra rất thân thiết với Trịnh Công Sơn. Bởi trong bài viết của ông ở sách này, ít nhất cũng có mươi, mươi lăm câu tương tự. Do không định thảo luận với Nhật Lệ nên người đọc chỉ xin đọc một mẫu thông tin khác của một người Việt ở nước ngoài (M Nguyễn) ghi lại lời kể của một người Việt ở nước ngoài khác (Thế Uyên) trong hai bài được chọn in gần nhau:
— “ Ngày 30 tháng 4, tôi (Thế Uyên) gặp Trịnh Công Sơn đang đứng trên vỉa hè gần ngã tư Phan Thanh Giản – Lê Văn Duyệt, hai người mừng rỡ băt tay nhau, tôi có hỏi anh hát NỐI VÒNG TAY LỚN trên đài phát thanh những giờ đầu tiên (miền Nam được giải phóng) thì anh cho biết bạn bè ở khu về kiếm ra anh ngay, kéo lên xe đưa về đến đài phát thanh, không kịp về nhà lấy đàn nữa nên phải hát tay không ….” (M Nguyễn trang 105)
Theo các nhà biên soạn, là bạn thân thiết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, hai mẫu tin trên, mẫu nào đúng, mẫu nào sai? Mẫu nào làm cho linh hồn Trịnh Công Sơn yên ổn, mẫu nào làm cho linh hồn Trịnh Công Sơn áy náy? Làm sao người nhạc sĩ thiên tài bạc mệnh ấy không áy náy cho được khi có người là bạn thân của ông thông báo cho công chúng biết không phải là trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà trước đó, ông đã cùng một số nhạc sĩ khác lên đài phát thanh của chế độ cũ hát vang bài NỐI VÒNG TAY LỚN truyền loan tin thống nhất đến mọi nhà rồi kia? Hay vì lí do đó mà sau 1975 ông bị đưa đi học tập cải tạo ở Cồn Tiên đến hai năm? Thắp hương cho Trịnh Công Sơn như thế này là bằng ngàn lần không thắp, phải không?
Mấy ví dụ liên quan đến trường sư phạm Qui Nhơn và Trịnh Công Sơn:
— Ở trang 358, Đỗ Quang Hạnh viết: “Sau khi tốt nghiệp Đại học sư pham Qui Nhơn…”
— Trong bài :Trịnh Công Sơn và tiềm thức “Thân phận mong manh”, Nhật Lệ viết: “ Năm 1961 Trịnh Công Sơn… thi vào trường sư phạm Qui Nhơn… khoa anh học: Tâm lí giáo dục trẻ em, thật buồn cười…” (trang 137)
— Trong bài: Nói về Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung viết: “ Trịnh Công Sơn học sư phạm Qui Nhơn để làm trưởng giáo”.
Sự thật về trường sư phạm Qui Nhơn là như thế này: Năm 1961 tại thị xã Qui Nhơn, chính quyền VNCH khai giảng khóa đầu tiên của trường sư phạm. Trịnh Công Sơn là giáo sinh khóa 1, ban thường xuyên hai năm tại đó. Trường đào tạo giáo viên tiểu học (bây giờ là cấp 1) cho các tỉnh miền Trung. Tất cả các giáo sinh khi tốt nghiệp được bổ nhiệm về dạy bất cứ một truờng nào trong các tỉnh từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao nguyên. Trịnh Công Sơn đi Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng). Tất cả các giáo viên ở các trường tiểu học miền Nam bấy giờ có thể dạy một lớp (lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì, lớp nhất, bây giờ thì gọi ngược lại lớp một, lớp hai, lớp ba, lớp bốn, lớp năm.) Hoặc có thể vừa dạy một lớp vừa làm hiệu trưởng (nếu trường thiếu giáo viên). Hoặc chỉ làm hiệu trưởng (nếu trường nhiều lớp, có đủ giáo viên). Trịnh Công Sơn khi lên Bảo Lộc đến một trường thiếu giáo viên, nên anh vừa làm hiệu trưởng vừa dạy một lớp trong một trường có hai lớp. Trường sư phạm Qui Nhơn không hề đào tạo nghạch trưởng giáo như Trịnh Cung nói. Là một trường sư phạm nên tất cả giáo sinh phải học tất cả các môn trong đó có môn Quản trị học đường và môn Tâm lí giáo dục. Ở bất cứ trường sư phạm nào đào tạo giáo viên cấp 1 tại miền Nam bấy giờ không hề có các chuyên khoa để Trịnh Công Sơn học “Khoa tâm lí giáo dục trẻ em”, như Nhật Lệ viết.
Những chi tiết: trường Đại học sư phạm Qui Nhơn, trưởng giáo, khoa tâm lí giáo dục trẻ em là những bịa đặt không cần thiết. Nhưng khi các tác giả Nhật Lệ, Trịnh Cung, Đỗ Quang Hạnh vì yêu thương bạn bè mà vẽ rắn thêm chân như thế, chẳng những không giúp ích gì cho người đọc muốn tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp Trịnh Công Sơn, mà chứng tỏ các nhà vẽ rắn có một não trạng kỳ quái, khó hiểu. Thiên tài như Trịnh Công Sơn thì cần gì phải Trưởng giáo, phải tốt nghiệp đại học? Theo suy nghĩ của người đọc, Trịnh Công Sơn trở thành thiên tài một phần vì những lận đận trắc trở, bế tắc trên nhiều mặt đời thường. Tôi, kẻ viết bài này, con đẻ của một đất nước chưa thoát khỏi tình trạng nghèo đói lạc hậu, tất nhiên rất khát khao khoa bảng, nhưng trăm phần trăm, vì quyền lợi bản thân và đất nước, không đánh đổi một Trịnh Công Sơn hát rong để lấy 10 tiến sĩ bình thường nào, dù ông ta tốt nghiệp tại Sài Gòn, Hà Nội, Balê hay Hoa Thịnh Đốn ( tôi nói 10 ông tiến sĩ bình thường, tôi không nói 10 nhà khoa học.)
Chuyện rắn có chân trong sách TRỊNH CÔNG SƠN – MỘT NGƯỜI THƠ CA – MỘT CÕI ĐI VỀ nếu kể hết thì quá dài dòng, vô vị. Rắn dù có vẽ thêm bao nhiêu chân đi nữa thì rắn không thể biến thành rồng được.
Theo tôi, người đọc: Trịnh Công Sơn là rồng (cũng có thể là một con chim hót trên đầu ngọn lau). Ông không hề là rắn, nên việc vẽ thêm những cái chân cho ông là không những không cần thiết, mà chỉ làm hại ông thôi. Chắc là ông đang buồn khổ lắm. Đây này, xin các nhà biên soạn đọc lại lời sau đây của Trịnh Công Sơn ở trang 167 cuốn sách mà các ngài soạn:
“… Cái giả, giả mà rất thật trong đời. Sự giả dối đôi lúc biết được thì làm khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể.” Có thể lúc này đây linh hồn Trịnh Công Sơn đang bay cùng một đám mây nào đó trên trời cao. Đột nhiên ông khựng lại, vì vừa phát hiện ra ngoài các chân rồng của mình, mấy nhà biên soạn, bạn ông, còn đeo thêm vào thân ông những cái chân rắn kỳ cục. Cái chân rắn kỳ cục nhất là bức ảnh có phụ đề Trịnh Công Sơn và vua hề Charlot – Huế 1959.
Đánh giá một con người bình thường là một việc làm không dễ. Để hiểu thấu đáo, đánh giá đúng đắn, công bằng và khám phá những giá trị ẩn chứa nơi con người sinh ra, lớn lên trong một đất nước vào một thời kỳ đặc biệt, con người có một đời sống đặc biệt, có một tài năng xuất chúng, có một sự nghiệp to lớn như Trịnh Công Sơn, là một việc cực kỳ khó khăn.
Các nhà biên soạn sách TRỊNH CÔNG SƠN – MỘT NGƯỜI THƠ CA – MỘT CÕI ĐI VỀ không có tham vọng và cũng không có khả năng để làm công việc đó.
Trong tư cách là những người có quan hệ thân tình ở một mức độ nào đó, trong một tình thế nào đó vào nửa sau cuộc đời Trịnh Công Sơn, đồng thời trong tư cách những người hâm mộ Trịnh Công Sơn nồng nhiệt, họ có được, sưu tầm được, lưu giữ được một số tác phẩm của Trịnh Công Sơn, một số tư liệu đời thường Trịnh Công Sơn, một số bài viết của nhiều tác giả về đời và nghệ thuật Trịnh Công Sơn, và họ đã làm sách.
Nói để thắp một nén hương cho người nhạc sĩ quá cố, nhưng thực chất họ chỉ là những người nhạy bén thị trường, nắm bắt thời cơ để kinh doanh trong tình thế bán khai của nền kinh tế ở thời điểm lố lăng này.
Cuốn sách của các ông Tạo, Kha, Huyến như lâm thời chúng tôi nhận định ở trên, không phải là một tập tư liệu cần thiết và quí báu về Trịnh Công Sơn, không phải là một toàn tập về Trịnh Công Sơn, không phải là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về Trịnh Công Sơn, và còn lâu mới là một cuốn sách biên soạn về con người và sự nghiệp nghệ thuật Trịnh Công Sơn đúng nghĩa; nhưng chắc chắn nó lại là một thành công không nhỏ về mặt doanh thu.
Ít ra, Trịnh Công Sơn dù đã vĩnh viễn ra đi, nhưng tài năng và tấm lòng của ông, ngoài gia tài nghệ thuật quí báu ông để lại cho đất nước, ông còn để lại cái gì đó ích lợi cụ thể cho một ai đó giữa cõi đi về này. Và kẻ nào đó bảo rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn là một trời ảo mộng, Y đã lầm.
Huế cuối tháng Năm 2001
.
bài đã đăng của Chu Sơn
- Bửu Chỉ: Bằng chính mình đến với cuộc đời - 10.09.2009
- Chu Sơn Trả Lời Thắc Mắc của Độc Giả về Bài Viết “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm” - 17.08.2009
- Trịnh Công Sơn – Viên Đá Bị Bỏ Quên Của Bà Nữ Oa - 11.08.2009
- Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm – Phần 1 - 13.07.2009
- Ngô Kha và Cuộc chuyện trò cuối năm – Phần 2 - 13.07.2009
3 Comments To "Đọc Trịnh Công Sơn- Một Người Thơ Ca – Một Cõi Đi Về"
#1 Comment By Trinh – Trung Lap On 01/04/2010 @ 8:25 am
Nhân ngày giỗ Cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trung Lập xin chân thành cảm ơn BBT đã dành cho những độc giả mến mộ tài năng của Cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có cơ hội được biết thêm các tác phẩm như : Bức vẽ Cố Nhạc sĩ TCS của Họa sĩ Bửu Chỉ, 3 bài dịch của dịch giả Tôn Thất Quỳnh Du (Passage of Time- Phôi Pha, The Remaining Eye–Con Mắt Còn Lại, và Cast By the Wind-Để Gió Cuốn Đi), và bài viết của Tác giả Chu Sơn trên đây.
Nếu có thể được xin BBT cho phép Trung Lập, trong cùng 1 comment này, có đôi điều muốn biết thêm về bức tranh cũng như nêu 1 số nhận xét về bài viết của Tác giả Chu Sơn:
– Hình ảnh nghệ thuật Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn có phải vào năm 2002 (như chú thích của BBT), tức cũng vào năm mà họa sĩ từ giã cõi đời này ?
-Rất đồng ý với nhận định của Tác giả Chu Sơn về việc cần tìm hiểu thêm ảnh hưởng trong âm nhạc Trịnh của thời gian Ông sống ở Cao nguyên (Bảo lộc) và đặc biệt là cuộc sống “giang hồ thứ thiệt” trước năm 1975 (theo đúng lời kể của Nhạc sĩ), cũng như cuộc “tái sinh” (chữ của Nhạc sĩ Trịnh trong bài “Tôi mười tám”) sau 1975 đối với những sáng tác của Ông. Trung Lập cũng đã có nhiều dịp đi công chuyện ở Cao nguyên Lâm đồng và nhận thấy vùng đất này quả là 1 nơi xúc tác rất lạ lùng cho những ai có những “ảo giác” (chữ của Tác giả Lê Hữu) như Trịnh (xin nói thêm cũng như “ảo giác” của Hàn Mặc Tử lần nhà thơ viết bài “Đà lạt trăng mờ” tại đây)
– Tuy nhiên tôi nhận thấykhông đồng ý với những vấn đề Ông Chu Sơn đặt ra cho những Tác giả biên soạn cuốn sách “Trịnh Công Sơn – Một cõi thơ ca – Một cõi đi về”, nhất là kết luận của Ông Chu Sơn về mục đích lợi nhuận thương mại thuần túy của cuốn sách. Riêng tôi cho rằng cuốn sách đã góp phần rất quan trọng, mở màn cho 1 loạt “phong trào” (nghĩa tốt của từ này) để tôn vinh và phổ cập thân thế và tác phẩm Trịnh Công Sơn cho giới trẻ tại Việt nam (nhất là trong hoàn cảnh nhạc mì ăn liền tràn lan tại Việt nam)
– Xin tác giả giải thích thêm nhận định của tác giả “…….Và kẻ nào đó bảo rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn là một trời ảo mộng, Y đã lầm.”
Xin chân thành cám ơn BBT và Tác giả Chu Sơn
#2 Comment By T.T On 01/04/2010 @ 1:55 pm
“Ít ra, Trịnh Công Sơn dù đã vĩnh viễn ra đi, nhưng tài năng và tấm lòng của ông, ngoài gia tài nghệ thuật quí báu ông để lại cho đất nước, ông còn để lại cái gì đó ích lợi cụ thể cho một ai đó giữa cõi đi về này. Và kẻ nào đó bảo rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn là một trời ảo mộng, Y đã lầm.”
Đoạn kết bài viết này nghe thế nào ấy.
1. Câu văn này hơi tối nghĩa:
“Ít ra, Trịnh Công Sơn dù đã vĩnh viễn ra đi, nhưng tài năng và tấm lòng của ông, ngoài gia tài nghệ thuật quí báu ông để lại cho đất nước, ông còn để lại cái gì đó ích lợi cụ thể cho một ai đó giữa cõi đi về này.”
Có thể sắp xếp lại cho mạch lạc hơn không:
– TCS dù đã vĩnh viễn ra đi, nhưng ngoài gia tài nghệ thuật quý báu ông để lại cho đất nước, thì tài năng và tấm lòng của ông vẫn là cái gì đó ích lợi cụ thể cho một ai đó giữa cõi đi về này.
Đó là câu cú mạch lạc hơn, nhưng ý nghĩa vẫn mơ hồ.
“ích lợi cụ thể cho một ai đó giữa cõi đi về này” là nghĩa làm sao?
2. Nếu đọc, và hiểu là cả bài văn này, tác giả nhằm phê phán nội dung của một quyển sách:
“ngắn mà không gọn, mà thiếu trước hụt sau, nghèo nàn, đơn giản, quả thật là hoàn toàn bất tiện không những cho người đọc mà còn chẳng hay ho gì cho nhóm biên soạn, cũng như cho người được thắp hương: Trịnh Công Sơn.”
thì câu cuối cùng, là câu kết (trong đoạn kết) làm người đọc chưng hửng:
“Và kẻ nào đó bảo rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn là một trời ảo mộng, Y đã lầm.”
Thế là thế nào?
“Một trời ảo mộng” từ chốn thinh không nào rơi xuống vậy kìa?
#3 Comment By songan On 05/04/2010 @ 10:50 pm
Cái gì thuộc về quá khứ ,hay để thời gian phán xét. Nhạc sĩ họ TRỊNH mất đã 10 năm rồi. Sao các vị cứ nhân danh những cái thuộc về mình để làm công án. Có ai đó đồng ý với tôi rằng: im lặng vừa là thành kính vừa là khinh bỉ không? TRỊNH CÔNG SƠN đã im lặng 10 năm rồi .