Houston, ngày 20 tháng 4 năm 2010
Thưa anh Lương Thư Trung,
Mở thư anh ra, mới đọc giòng chữ đầu tiên, “Long Xuyên, ngày…”, tôi đã cảm thấy thú vị lẫn bâng khuâng. Thú vị vì thấy là dù xa xôi ở phương nào chăng nữa, tác giả “Bến Bờ Còn Lại” vẫn có thể “đằng vân” trong tâm tưởng mà nhìn thấy ruộng vườn ở chung quanh mình, nhìn thấy sông rạch ở ngay trước mắt. Bâng khuâng vì mấy chữ ấy đã gợi lại cho tôi bao cảm xúc dạt dào về lần đến Quân Y Viện Long Xuyên lãnh xác một người bạn dưới thời hoang sử, đau thương ngày trước. Nhưng đọc xong lá thư của anh thì đầu óc lại thảnh thơi, thư thái, quên hết những điều phiền muộn trên đời, mà chỉ muốn chạy về lục tỉnh mắc võng sau hè nằm nghe chim hót. Cảm ơn anh đã gửi cho lá thư chan chứa tình cảm miệt vườn mát rượi ấy, và cũng không quên cảm ơn lòng ưu ái anh dành cho bài thơ ‘nịnh vợ bằng cách ca tụng ông thân sinh’ của tôi. Nói ‘nịnh vợ’ là nói vậy thôi, chứ thật ra như anh đã thấy, tôi rất mực yêu mến cái chất ‘nhà quê’ đồng ruộng miền Tây của ông Ngoại các cháu, cái chất nhàn tản, sống hoà với thiên nhiên, chim muông cây cỏ, mà một kẻ Bắc Kỳ chính cống là tôi lại cho là cực kỳ hay ho, thú vị. Tôi vẫn thường nói trêu bà nhà tôi là tôi thương ‘ông cụ’ còn hơn thương ‘cô con gái’. Bài thơ này hồi nào đến giờ chỉ để trong nhà đọc chơi với nhau, nay tám năm rồi đem gửi cho anh mới là một. Gửi cho anh vì lúc mới gặp, tôi đã thấy ở anh cái cốt cách nhà quê, chân chất hiếm có, và sau khi đọc sách của anh thì lại càng thấy rõ là ẩn đằng sau cái dáng vẻ thật thà, khiêm tốn ấy là cả một tấm lòng sáng trưng như nhật nguyệt. Nên tôi đã đoán mò mà lại trúng phóc, là anh sẽ thích, sẽ quý mến cái hình ảnh ông già Nam Bộ độc đáo ở ông Nhạc tôi. Cũng người một hội, một thuyền đâu xa. Cách nay trên mười năm tôi có công việc đi ngang vùng Đông Nam Á nên cũng đã ghé về An Hữu thăm mồ mả, họ hàng bên vợ, và cũng đã có dịp ngồi trên thềm căn nhà xưa cũ mấy đời của gia đình mà nhìn ra trước mặt là giòng Tiền Giang sông nước mênh mông, bát ngát, tấp nập ghe thuyền chất đầy cây trái, đua nhau về tụ tập bên chợ An Hữu. Phải đã từng ngồi bên bờ Tiền Giang trong một buổi trưa hè nóng nực mới biết cái cảm giác mát rượi của gió sông mơn trớn, lau sạch hồn mình. Xin cảm ơn anh đã chia sẻ cái luồng gió mát ấy.
Cũng xin cảm ơn anh sáu bài kệ mà anh đã sao chép từ bia mộ của vị sư trụ trì chùa Tân Phước Tự tại làng Tân Bình nơi quê anh. Anh viết chữ Nho đẹp quá. Ước gì tôi viết được như vậy. Tuy nhiên, theo cái thiên kiến lệch lạc của tôi thì đó không phải là những bài ‘kệ’ mà là những bài ‘minh’. ‘Kệ’ theo tôi hiểu là những bài thuyết giảng, dậy dỗ giáo lý, như ta vẫn thường nói ‘kinh kệ’, còn ‘minh’ là những lời khắc lên mộ bia để ghi lại cuộc đời, công đức của người quá cố. Theo sự đoán mò của tôi thì cụ Bùi Xuân Hoà, một nhà Nho ở Chợ Mới gần đấy như anh nói, chắc có quen biết với nhà sư Yết Ma, và đã được nhà chùa uỷ thác cho việc viết những bài minh để khắc lên bia mộ. Ý nghĩa của những bài thơ ấy rất thâm trầm, sâu sắc. Tôi đầu óc còn u minh, nghiệp trái còn nặng, chưa hiểu được lẽ ảo diệu của Pháp môn nhà Phật, nên không dám luận bàn gì thêm về ý nghĩa những bài thơ ấy. Nhưng đứng trên khía cạnh văn chương thì chữ dùng trong thơ rất tài tình, bút pháp rất chắc, đối rất chỉnh, rất đẹp. Chẳng hạn như hai câu: mỗi bả huệ đăng tầm giác lộ, tương thừa bửu phiệt độ mê tân – Vốn cầm ngọn đèn trí huệ đi tìm nẻo về giác ngộ. Vẫn chèo chiếc bè mầu nhiệm đưa người qua bến u mê – thì thật hay hết chỗ nói. Hay lắm. Và tôi đành phải xin thất lễ với anh mà từ chối không dám dịch những bài thơ ấy, chỉ để dành lâu lâu dở ra đọc, may ra con mắt mở thêm ra được chút nào. Trong thư anh nói đến việc giao hoà giữa Phật và Thánh trong lòng người dân quê Việt Nam. Tôi gọi đó là sự cân bằng mầu nhiệm giữa Đạo và Đức, sự cân bằng mà ông cha ta, từ Bắc chí Nam, đã khéo léo dung hợp để con người có thể hoà mình cùng cỏ cây, đất trời hoa lá. Tôi thích những niềm tin mà trong đó con người sống ngay thẳng, thương yêu nhau trong hôm nay và cho hôm nay. Chuyện ngày mai xin để ngày mốt.
Lại cũng xin cảm ơn anh đã cho đọc lại Vị Xuyên Điền Gia. Thơ ngũ ngôn của Vương Duy xưa nay không ai sánh kịp. Ông là Vương Ma Cật, là Thi Phật. Ông có người mẹ mộ đạo Phật, nên từ nhỏ đã được tắm gội trong tư tưởng Ba La Mật. Tưởng cũng nên nhớ là đạo Phật ở Trung Hoa vào thời Vương Duy tương đối còn mới mẻ. Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Độ về cũng chỉ trước đó dăm chục năm. Nhiều bậc Nho sĩ thời ấy vẫn cho Phật giáo là tà đạo, chỉ làm mê hoặc lòng người, chỉ làm phá hỏng đạo nghĩa vua tôi, nên cần phải ngăn cấm. Anh hẳn còn nhớ chuyện Hàn Dũ, một trong Đường Tống Bát Đại Gia, sống sau Vương Duy ít lâu, đã từng viết thư khuyên Đường Hiến Tông nên khai trừ đạo Phật. Nhưng bước vào cõi thơ của Vương Duy là bước vào cõi u mặc của Thiền Tông, vắng bặt lời kinh câu kệ mà vẫn bàng bạc cõi không của ngàn năm mây trắng. Ông có mấy câu mà tôi rất thích như: Giang lưu thiên địa ngoại. Sơn sắc hữu vô trung. Giòng sông chẩy ở cõi bên ngoài ‘Trời’ và ‘Đất’. Cái cõi ấy là cõi nào vậy trong bao nhiêu cõi ta bà thế giới ? Và giòng sông ấy là giòng gì vậy ? Giòng nước, giòng thời gian hay giòng luân hồi ? Còn sơn sắc thì lúc trước tôi hiểu là mầu sắc của núi, sau này nhìn lại bằng cặp mắt Thiền Tông của ông mới ngã ngửa giật mình khi thấy sắc là sắc tướng. Cái ngọn núi đứng sừng sững trước mặt ta kia là có thật mà là không có thật, cái hình tướng của nó, cái sắc của nó, chứ không phải nó, nằm ở cõi giữa ‘Có’ và ‘Không’, giữa ‘Hữu’ và ‘Vô’. Còn nó là cái gì, chân tướng nó ở đâu ? Nào ai biết. Câu thơ lại còn thâm diệu hơn nữa nếu ta nhìn cả hai chữ lưu và sắc như hai động từ. Giang lưu thiên, địa ngoại. Sơn sắc hữu, vô trung. Hay là mấy câu này tôi cũng thích lắm: Khê trung bạch thạch xuất, Thiên hàn hồng diệp hy, Sơn lộ nguyên vô vũ, Không thuý thấp nhân y. Xin tạm dịch: Sỏi đá trắng nhô lên giữa lòng suối cạn. Vài cánh lá đỏ lác đác giữa trời lạnh lẽo. Đường quanh núi vốn chẳng mưa một giọt. Sao vạt áo ai thẫm ướt sắc xanh, sánh mầu tía lục của cõi không im vắng ! Trong thơ Vương Duy mầu sắc không chỉ đơn thuần là xanh đỏ tím vàng, mà còn có thêm một chiều thứ tư, thứ năm khác. Ở Vương Duy, con mắt và lỗ tai có sự liên hệ mật thiết lạ lùng, như hoà làm một. Mầu sắc và âm thanh đối với ông như là hai “diện” khác nhau của cùng một thứ. Âm thanh có thể lấp lánh, mà mầu sắc có thể vang vọng. Xin mời anh đọc lại một bài thơ năm chữ khác của Vương Duy, đó là bài Lộc Trại, tên chỗ ông lui về ẩn dật trên núi.
Lộc Trại
Nơi Hươu Ở
Không sơn bất kiến nhân 空山不見人 Núi vắng không thấy người
Đãn văn nhân ngữ hưởng 但聞人語響 Chỉ nghe tiếng nói vọng đến
Phản ảnh nhập thâm lâm 返 影入深林 Bóng chếch vào rừng sâu
Phục chiếu thanh đài thượng 復照青苔上 Dội chiếu trên đài rêu xanh
Trong bài thơ này, trong cái thế giới yên ắng của Vương Duy, tiếng người từ nơi xa xôi vọng đến, ‘phản chiếu’ vào rừng sâu, rồi ‘dội’ trên đài rêu xanh. Quả đúng như lời Tô Đông Pha, người mà anh có nhắc đến trong thư vừa rồi, (mà có dịp tôi sẽ gửi anh đọc chơi ít bài tôi dịch thơ Tô Thức) đã nói về thơ Vương Duy: thi trung hữu hoạ. Bài thơ này tôi cũng đã dịch, xin chép ra đây mời anh cùng đọc:
Ở Trại Hươu
Núi không, im vắng bóng người
Chợt nghe văng vẳng tiếng đời bể dâu
Hắt lên, lấp lánh rừng sâu
Dội xanh rêu phủ một mầu lặng câm.
Bây giờ xin trở lại với Vị Xuyên Điền Gia của anh. Đọc lại bài thơ này tôi rất hứng thú, chỉ muốn quăng hết nhà cửa, xe cộ, về nhà quê câu cá, nên vừa mới dịch xong bài này ra quốc âm. Xin chép ra đây mời anh đọc:
Vị Xuyên Điền Gia
渭川田家
Nhà Nông ở Vị Xuyên
Trướng nhiên ngâm ‘thức vi’.
斜陽照墟落,
窮巷牛羊歸。
野老念牧童,
倚杖候荊扉。
雉雊麥苗秀,
蠶眠桑葉稀。
田夫荷鋤至,
相見語依依。
即此羨閑逸,
悵然吟式微。
Nắng vàng trải khắp miền quê,
Trâu bò lần bước trở về làng bên.
Cụ già đứng tựa hàng hiên,
Nhìn đàn mục tử đùa trên cánh đồng.
Cò bay, lúa trổ đòng đòng,
Tằm say sưa ngủ giữa giồng dâu thưa.
Ngưng cày, ai nấy thảnh thơi,
Hỏi nhau những chuyện đất trời, vu vơ.
Đời trôi qua, nhẹ như mơ,
Về thôi, lều cỏ, đọc thơ thanh nhàn.
Hai chữ thức vi trong câu cuối rất thú vị. Nghĩa đen của nó là suy vi lắm rồi. Nhưng ở đây tác giả dùng điển tích, lấy nghĩa từ một bài thơ trong Kinh Thi. Bài thơ ấy như sau:
式 微 式 微, 胡 不 歸 ? 微 君 之 故, 胡 爲 乎 中 露 ?
Thức vi, thức vi, hồ bất quy ? Vi quân chi cố, hồ vi hồ trung lộ ?
式 微 式 微, 故 不 歸 ? 微 君 之 躬, 胡 爲 乎 泥 中?
Thức vi, thức vi, cố bất quy ? Vi quân chi cung, hồ vi hồ nê trung?
Tạm dịch:
Đời suy vi rồi, không về đi thôi ? Việc nước biết sao, sương giá nỡ đành ?
Suy vi lắm rồi, về ngay đi vậy ! Chuyện đời ai hay, bùn lầy thôi chẳng !
Hai chữ Về thôi không có ở nguyên tác. Khi dịch, tôi lấy ý từ bài thơ trên trong Kinh Thi, bầy tỏ lòng của kẻ sĩ gặp thời suy vi, vua quan thối nát, có muốn đem tài sức ra giúp đời cũng không được, ung dung về quê làm ruộng, tìm niềm vui nơi cỏ cây, thôn dã. Đây cũng là thái độ của những bậc hiền nhân ngày xưa, sống trong cảnh ngộ nào cũng giữ được lòng an nhiên, thư thái, làm quan cũng không lấy làm vinh, mà làm dân cũng không lấy làm thẹn. Mà không những thế, ra làm quan vì vạn nhất mà phải làm thế thôi. Gặp buổi có thể giúp đời mà khoanh tay thì không nỡ, nhưng lòng chỉ mong được về lều cỏ sống an nhàn, ẩn dật. Anh nhắc đến cụ Nguyễn Khuyến trong thư trước, thư này tôi xin được tưởng niệm đến cụ Nguyễn Trãi. Và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cái lòng muốn được về ẩn dật, nhìn mây trắng bay của cụ Trạng Trình nhà ta cũng là lòng của Vương Duy trong một bài thơ khác, mà tôi xin chép ra đây mời anh cùng đọc lại:
Tống biệt
Há mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở chi
Quân ngôn bất xứng ý
Quy ngoạ Nam sơn thuỳ
Đãn khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
下馬飲君酒
問君何所之
君言不稱意
歸臥南山陲
但去莫復問
白雲無盡時
Bài thơ này dịch xuôi ra như sau: Xuống ngựa uống rượu cùng anh. Hỏi anh chốn ở mãi tận phương nào, Anh đáp việc đời chẳng được như ý. Về nằm thõng ở núi Nam vậy. Đi ngay thôi, chớ hỏi nữa. Mây trắng bay mãi có bao giờ hết đâu. Bài thơ này thú vị ở chỗ đọc lên tưởng như là hai người bạn uống rượu chia tay, người này xuống ngựa tiễn người kia lên núi Nam nằm ngắm mây trắng mà quên hết việc đời. Nhưng tôi lại không nghĩ như thế, tôi không thấy hai người mà chỉ thấy mỗi mình Vương Duy, tự mình nói chuyện với mình, tự mình uống rượu, tự mình khuyên mình nên về núi Nam, xa lánh những điều bất xứng ý. Tôi đã mượn cái lòng của Nguyễn Du, cái đùa của Bùi Giáng mà dịch bài thơ này, chép ra đây mời anh đọc:
Tiễn Ai
Bâng khuâng giữa phố, bên phường,
Đoạn trường nẻo ấy, mưa nguồn về đâu ?
Rằng từ ngẫu nhĩ bể dâu,
Chữ ‘tài’ đã ‘mệnh’ giữa mầu quan san.
Về thôi, mây trắng trên ngàn,
Kìa em mọi nhỏ mơ màng đầu truông.
Thôi về, nằm khểnh trên buôn.
Thưa anh, vài lời vụng về nói loanh quanh, anh không cười cho là tôi vui lắm. Tôi học và trọng ở anh cái cung cách kẻ sĩ, nhưng sống và cư xử như một người nhà quê. Tôi yêu ông Nhạc tôi cũng là ở cái lẽ ấy. Cái lẽ nói ra thì dễ, mà thực hiện được thì không có mấy người. Tôi chưa ‘trả hết nghiệp’, chưa ‘về’ được, vẫn phải lăn lộn nơi bùn lầy, sương gió, tuy vui thích với công việc, không phiền hà, giận dỗi, nhưng lòng vẫn thầm mong đến lúc được nhàn nhã tháng ngày, vui chơi sông núi. Mà cũng chẳng vội, bao giờ nó đến thì nó đến.
Anh kết bức thư bằng một câu hỏi. Mà câu hỏi ấy lại không phải là câu hỏi, mà là một lời tỏ bầy tâm sự. Tôi cũng xin trả lời câu hỏi ấy bằng một câu trả lời không phải là câu trả lời, mà là một lời bầy tỏ nỗi lòng. Trong một bài viết gần đây, nhân nghĩ đến sự phân hoá, thù hằn giữa người Việt, tôi đã đặt niềm hy vọng về tiền đồ dân tộc vào cái nhân cách của người dân quê Việt Nam, vào cái thiên lương của họ, vào cái tính lành trời cho ấy. Sau bao nhiêu năm chinh chiến, đoạ đầy, sự tàn phá tai hại nhất của chiến tranh, bên cạnh sự tử vong của ba triệu người, là sự hung tợn của những kẻ sống sót, sự đánh mất lòng nhường nhịn nhau. Tôi đã viết: Tôi vẫn đặt niềm tin vào tinh thần độ lượng của người dân quê Việt Nam khắp nơi trên đất nước, niềm tin là họ còn giữ được không những lòng trọng lẽ phải mà còn trọng lẽ phải một cách bao dung, niềm tin là sự chịu đựng bền bỉ, dẻo dai của họ sẽ giúp dân tộc thoát ra khỏi sự tranh chấp dữ dằn, độc đoán đang xẩy ra trong tâm tư người Việt. Tôi muốn tin là dù bao nhiêu năm sống căng thẳng giữa những áp bức thâm độc, những tuyên truyền xảo trá, giữa những lý sự bịp bợm, những khủng bố dã man, thì cái thiên lương, cái tinh thần huynh đệ một nhà, lấy sự bình thường giản dị ra mà cư xử với nhau, lấy sự hoà thuận chòm xóm láng giềng ra mà đối đãi với nhau, cái thiên lương, cái lòng độ lượng ấy ở người dân quê Việt Nam, trong đường dài, sẽ giúp dân tộc vượt thắng sự bạo hành, cay nghiệt nhất thời.
Anh hỏi có phải “cái ‘nhân cách’ dù là ‘nhân cách nhà quê’ đi chăng nữa, cũng là điều đáng trân trọng trong mỗi con người…?” Xin thưa, trong cái đầu nghiêng lệch của tôi, nó là điều duy nhất có thể cứu rỗi được trần gian này, chứ không riêng gì một nước Việt, là điều duy nhất có thể biến cái sa mạc của hận thù, ganh ghét, của ích kỷ, nhỏ nhen, thành cõi địa đàng, chan hòa cây trái. Phải thế không, thưa anh Lương Thư Trung?
Kính bút,
Tô Thẩm Huy
Articles by Tô Thẩm Huy
- Nghĩ Về Thơ - 21.09.2011