- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

Kẻ nhịn đói

 

Lời người dịch: Thật thừa thãi khi viết về Franz Kafka [1883-1924] bởi những gì bạn định nói về nhà văn này có lẽ đâu đó đã có người nói đến. Thật vậy, suốt thời gian từ khi ông mất cho đến bây giờ, ngót nghét một thế kỉ, người ta vẫn không ngớt thi nhau mổ xẻ, giải mã, phân tích, đào bới ba cuốn tiểu thuyết—không cuốn nào thật sự hoàn tất—và ít truyện vừa, truyện ngắn, đoản văn, thư từ, nhật kí ông viết trong thời gian tại thế, và thời gian ông hiện hữu trên mặt đất này cũng ngắn ngủi lắm (ông mất năm 41 tuổi vì bệnh lao). Kafka là hiện tượng hiếm hoi gần như độc nhất vô nhị trong văn học Tây phương. Phần đất ông khai phá chưa hề có ai ngự trị, bởi thế mặc dù với số lượng trước tác tương đối ít ỏi, ảnh hưởng ông bao trùm gần như toàn bộ dòng văn học hiện đại của Tây phương. Cùng với James Joyce và Marcel Proust, ông thường được nhắc đến như là một trong ba cây đại thụ của khu vườn văn học thế kỉ XX.

 

Có thể nói những gì Kafka viết toàn là những điều vô nghĩa lí. Phi lí thì đúng hơn. (Có gì phi lí hơn chuyện người đàn ông buổi sáng thức dậy thấy mình biến thành con bọ khổng lồ?) Không khí truyện bao giờ cũng như trong ác mộng. Tuy thế, người đọc vẫn có cảm tưởng như đang đọc một truyện ngụ ngôn, nhưng truyện ngụ ngôn đó tan vỡ hoàn toàn khi chúng ta tìm cách giải mã nó. Giải mã Kafka giống như thầy mù xem voi. Thêm nữa, chúng ta chẳng thể nào đem truyện ngụ ngôn đó áp dụng vào đời sống bình nhật. Kafka không viết truyện thần kì, đối tượng của ông bao giờ cũng là con người và đời sống. Bởi thế nếu nhìn từ góc độ xã hội, Kafka lại cho chúng ta cảm quan rất hiện thực về sự bế tắc của đời sống hiện đại, một đời sống bị vây hãm và quản thúc bởi sức ép không sao vuột thoát nổi của gia đình, nhà nước, xã hội. Có lẽ vì thế tác phẩm Hoá thân, dưới mắt người Mác-xít, biểu hiện cho sự tha hoá của con người hiện đại. Những nhân vật trong truyện thường méo mó, dị dạng, điển hình là nhân vật làm nghề “nhịn đói” cho công chúng xem trong truyện ngắn dưới đây. Xin dẫn lời của Paul Auster về truyện Kẻ nhịn đói: “. . . Kẻ nhịn đói đi quá xa. Điều đó thực là nguy hiểm, sự nguy hiểm hiển hiện trong bất kì thao tác nào của nghệ thuật: bạn phải chấp nhận hiến dâng cuộc đời mình. Sau cùng, nghệ thuật nhịn đói có thể được hiểu như là nghệ thuật hiện sinh. Nó là cách thế nhìn thẳng vào mặt cái chết, và cái chết theo tôi có nghĩa là cái chết trong đó chúng ta ngày nay đang sống: không Thượng đế, không hi vọng được cứu rỗi. Chết tức là chấm dứt đời sống một cách đột ngột và phi lí.”

*

the_old_guitarist

Pablo Picasso, Người đàn ông già gẩy đàn ghi-ta (the old guitarist) (1903)

Những năm gần đây thị hiếu quần chúng đối với màn biểu diễn nhịn đói giảm sút thấy rõ. Những pha trình diễn như thế, hết sức quy mô và do tư nhân tổ chức, thuở trước thường đem lại mối lợi to, nhưng ngày nay không ai thực hiện nổi nữa. Thời đó khác bây giờ nhiều lắm. Có lúc mọi người trong tỉnh, ai nấy bị gã nghệ nhân làm mê hoặc; trong lúc gã nhịn đói, sự nô nức trong lòng mọi người càng lúc càng gia tăng, ai cũng muốn tận mắt mỗi ngày một lần trông thấy gã; ở những buổi trình diễn cuối người ta giữ ghế đặc biệt suốt ngày ngồi trước chiếc cũi nhỏ, có cả những xuất diễn về đêm dưới ánh đuốc để tăng thêm cảm giác; những hôm đẹp trời cũi được khênh ra nơi trống trải và đó là lúc đặc biệt thú vị cho lũ trẻ con có dịp tận mắt quan sát kẻ nhịn đói, với người lớn tuổi gã chỉ là trò cười họ tham dự chẳng qua vì đó là cái mốt; lũ trẻ đứng chung quanh cũi miệng há hốc đầy thán phục, chúng nắm chặt tay nhau để giữ an toàn, mắt nhìn vào chăm chú, gã ngồi trên đống rơm trải dưới đất, chẳng cần ghế ngồi, trên thân thể xanh lướt gã khoác bộ đồ len màu đen nhàu nát, xương sườn gã lòi ra trông phát khiếp; thi thoảng gã lịch sự gật đầu, trả lời câu hỏi của người nào đó với nụ cười gượng gạo, có lúc gã thò cánh tay qua chấn song cũi cho người ta thấy tay gã gầy ốm khẳng khiu như thế nào nhưng rồi gã lại rút vào trong câm lặng, chẳng thèm để ý đến ai, đến điều gì, ngay cả tiếng điểm giờ hết sức quan trọng của chiếc đồng hồ, món vật duy nhất trong cũi, gã cũng chẳng bận tâm chú ý, gã nhìn thẳng về phía trước bằng đôi mắt khép hờ và thi thoảng hớp một hớp nước cho đôi môi đỡ khô nứt.

Bên cạnh đám khán giả lố nhố chung quanh, người ta còn cử ra những toán canh gác; thật lạ lùng họ thường là những anh đồ tể, có nhiệm vụ canh chừng gã ngày cũng như đêm—mỗi phiên gác ba người—ngăn ngừa trường hợp gã lén lút lấy thức ăn bỏ vào miệng. Nhưng đây chỉ là thủ tục không hơn không kém có mục đích bảo đảm với quần chúng tính trung thực của cuộc nhịn đói, không hề có sự giả trá trong màn biểu diễn nhịn ăn của gã, bởi người ta hiểu rất rõ trong suốt thời gian nhịn đói gã không bao giờ bỏ vào miệng miếng bánh nhỏ nào kể cả trường hợp bị ép buộc; danh dự nghề nghiệp gã không cho phép gã làm thế. Lẽ cố nhiên không phải người canh gác nào cũng thấu hiểu điều đó; thường bao giờ cũng có những toán gác đêm rất lơ là và họ cố tình ra ngồi ở một góc rõ xa, họ đem bài ra đánh và đặt hết tâm trí vào canh bài, hiển nhiên cố tình cho phép gã có cơ hội bỏ vào miệng ít thức ăn mà họ chắc mẩm gã lén giấu nơi nào đó. Kẻ nhịn đói ghét cay ghét đắng những bọn canh gác này, gã thật khổ sở, vì họ mà cuộc nhịn đói của gã trở nên đau đớn khôn kham; đôi lúc gã cố nén sự yếu đuối của mình, mở miệng hát lảm nhảm được chừng nào hay chừng đó để những kẻ ngồi canh gác nhìn ra sự nghi ngờ của họ là thiếu công bằng biết bao. Tuy nhiên, chỉ vô ích thôi; họ chỉ tỏ vẻ kinh ngạc về khả năng vừa ăn vừa hát của gã. Gã rất thích những người canh gác ngồi sát ngay bên ngoài chấn song cũi và bởi không thoả mãn với ánh đèn đêm lù mù trong sảnh đường họ đem đèn rọi chạy bằng điện do ông bầu tổ chức cung cấp chiếu vào mặt gã. Ánh đèn điện chói loà không làm gã khó chịu, bởi chẳng lúc nào gã nhắm mắt ngủ được mà chỉ gật gà gật gù bất kể lúc đó là mấy giờ, trời tối hay sáng, ngay cả khi sảnh đường chật ních người nói năng ầm ĩ. Gã sẵn sàng thức trọn đêm ngồi với những người canh gác như thế; gã vui vẻ pha trò nói chuyện vãn với họ; kể họ nghe những mẩu chuyện về cuộc sống rày đây mai đó của gã và ngược lại lắng nghe họ kể chuyện đời họ, nói chung gã làm bất cứ điều gì khiến họ tỉnh ngủ để họ thấy rõ mười mươi là chẳng có thức ăn gì bên trong cũi và chỉ có gã mới nhịn đói được như thế thôi. Tuy thế thời điểm sung sướng nhất của gã là lúc trời rạng sáng và một bữa ăn thịnh soạn—bữa ăn nhờ gã mới có—được dọn ra; mấy người canh gác xô vào ăn uống ngon lành sau một đêm canh giữ mỏi mệt. Dĩ nhiên vẫn có kẻ dè bỉu cho là bữa ăn như thế chẳng qua chỉ là hình thức gã hối lộ những người canh gác, nhưng nghĩ vậy là đi quá xa, và khi được hỏi có chịu giữ nhiệm vụ canh gác nhưng không ăn bữa ăn sáng không—để làm sáng tỏ nghi vấn—thì họ lẻn ra chỗ khác, tuy thế họ vẫn khăng khăng giữ nguyên lời nói ẩn ý bóng gió xa gần.

Sự ngờ vực như vậy thật không sao tránh được. Không ai có khả năng liên tục canh gác gã suốt ngày đêm, bởi thế chẳng ai có thể cả quyết chính mắt mình chứng kiến cuộc nhịn đói hoàn toàn liền lạc và không thể chê bai vào đâu; chỉ mình gã biết rõ điều đó, và bởi thế gã là khán giả duy nhất hài lòng với màn biểu diễn nhịn ăn của chính mình. Vậy mà do những nguyên cớ khác gã chẳng bao giờ hài lòng; có lẽ không phải vì nhịn ăn mà thân thể gã trở nên héo hon, tiều tụy đến độ nhiều người không dám đến xem gã trình diễn chỉ vì hình ảnh đau đớn của gã khiến họ thấy vô cùng bất nhẫn trong lòng, có lẽ gã gầy yếu như thế bởi gã không bằng lòng với chính mình. Bởi không ai ngoài gã biết rõ một điều: Nhịn đói là cái gì thật dễ dàng. Dễ nhất trên cõi đời. Gã chẳng giữ bí mật này làm gì mặc dù không ai tin lời gã; khá nhất người ta nghĩ gã tỏ thái độ khiêm nhường khi nói vậy, nhưng hầu hết cho đó là hình thức quảng cáo hoặc nghĩ gã là kẻ gian manh, nhịn đói không khó khăn nhờ biết cách tráo trở nhưng lại cả gan ít nhiều tự thú nhận mình gian lận. Gã phải chịu đựng tất cả những đau đớn này và sau nhiều năm tháng gã quen dần, nhưng sự bất mãn với chính mình ray rứt gậm nhấm gã khôn nguôi, và chưa bao giờ, sau bất kì cuộc nhịn đói nào—chí ít người ta phải công nhận như thế—gã chịu tự ý từ trong cũi bước ra một mình. Ông bầu tổ chức xác định thời hạn nhịn đói là bốn muơi ngày, ông không bao giờ để vượt quá thời hạn này ngay cả ở những thành phố lớn, và lí do không phải là không vững chắc. Kinh nghiệm cho thấy ở bất cứ thị trấn nào quần chúng chỉ có thể bị lôi cuốn nhờ quảng cáo mỗi ngày mỗi rầm rộ trong khoảng thời gian bốn muơi ngày thôi, sau đó họ lơ là và số người đi xem giảm sút thấy rõ; dĩ nhiên mỗi nơi mỗi khác, tỉnh này không giống tỉnh kia, xứ này khác xứ nọ, nhưng bốn muơi ngày là thời hạn thông thường. Thế rồi vào ngày thứ bốn mươi, chiếc cũi giăng đèn kết hoa được mở ra, sảnh đường chật ních người xem náo nức chờ đợi, tiếng nhạc do ban quân nhạc đảm trách trổi lên, hai bác sĩ chui vào cũi đo nghe kẻ nhịn đói những gì cần khám, đoạn dùng loa tuyên bố kết quả cuộc khám nghiệm cho khán giả nghe, cuối cùng hai cô thiếu nữ từ trong đám đông tiến lên, hai cô rất vui sướng được chọn làm vai trò danh dự dìu kẻ nhịn đói từ trong cũi bước ra cái bàn nhỏ nơi người ta bày sẵn bữa ăn ê hề nấu riêng cho người bệnh. Và đúng vào thời điểm này kẻ nhịn đói luôn luôn trở nên cứng đầu, ương ngạnh. Giỏi lắm gã chỉ giơ tay lên nắm tay hai cô thiếu nữ đang nghiêng người bên cạnh tỏ vẻ ần cần, nhưng đứng dậy ư?—không đời nào. Tại sao mới bốn mươi ngày đã ngưng rồi? Gã có thể nhịn đói lâu hơn thế chứ, vô thời hạn cũng được; tại sao ngưng ở đây trong khi gã đang ở giai đoạn nhịn đói sung mãn nhất, hay đúng hơn, chưa đến giai đoạn sung mãn nhất? Tại sao người ta tước đi của gã niềm vinh quang không những gã là kẻ nhịn đói vĩ đại nhất từ trước đến nay, chính là gã chứ chẳng còn ai khác, mà còn làm mất đi cơ hội gã đánh đổ kỉ lục của chính gã để đạt đến mức độ không ai tưởng tượng nổi, bởi gã cảm thấy sức mạnh của khả năng nhịn đói trong người gã không hề biết giới hạn là gì. Tại sao quần chúng hâm mộ gã, những người tự nhận là kẻ thán phục gã, lại thiếu kiên nhẫn với gã đến thế; nếu gã có thể chịu đựng sự nhịn đói lâu hơn, tại sao họ không chịu đựng cùng gã được? Và hơn nữa, gã thấy mệt mỏi, ngồi trên đống rơm thoải mái lắm, giờ đây gã phải kéo mình đứng thẳng dậy và bước đến ăn bữa ăn mà mới nghĩ đến thôi gã đã muốn ói mửa, cố hết sức đè nén và bởi có hai cô gái bên cạnh, gã không thể để lộ cảm xúc đó ra nét mặt. Đoạn gã ngước mắt lên nhìn trân trối vào mắt hai cô gái, hai cô bên ngoài tỏ vẻ thân thiện nhưng thật ra họ tàn nhẫn vô cùng, gã lắc đầu, đầu gã nặng chình chịch trên cần cổ yếu ớt. Nhưng rồi, chuyện luôn luôn xảy ra, xảy ra lần nữa. Ông bầu tổ chức lẳng lặng tiến lên—ông không tuyên bố được lời nào bởi tiếng nhạc quá lớn—ông đến đứng bên cạnh kẻ nhịn đói đoạn giơ hai tay lên trời như thể xin trời nhìn xuống chứng giám tác phẩm trời tác tạo đang ngồi trên đống rơm, kẻ chịu khổ nhục đáng thương, đúng là kẻ nhịn đói đấy nhưng ở một ý nghĩa hoàn toàn trái ngược; ông khẽ khàng ôm ngang hông gã, động tác của ông thật cẩn trọng như để nhấn mạnh tình trạng mong manh yếu đuối của gã đoạn ông giao gã cho hai cô gái—ông không quên bí mật lắc người gã một hai cái để thân trên và hai chân gã duỗi ra—hai cô gái mặt mày tái mét. Đến đây kẻ nhịn đói hoàn toàn bị khống chế, đầu gã gục xuống ngực như thể nó tình cờ lăn đến đó và không hiểu sao ngừng lại, người gã ruỗng ra, bản năng tự tồn khiến đầu gối gã như bị siết chặt nhưng đôi chân gã kéo lê trên mặt đất như thể mặt đất không phải là mặt phẳng cứng, toàn thân gã, dù chẳng nặng nề bao nhiêu, gục lên một trong hai cô thiếu nữ, cô nhìn quanh xem có ai giúp mình không, hơi thở cô có phần gấp rút lên một chút—đây không phải là hình ảnh cô vẽ ra cho vai trò danh dự của cô—thoạt tiên cô cố sức né tránh bằng cách ngửa cổ ra phía sau để mặt mình khỏi chạm gã, nhưng rồi, sau khi làm thế mà vẫn không hiệu quả gì và người bạn đồng hành may mắn hơn của cô đã không giúp gì mà chỉ biết đưa bàn tay run rẩy ra nắm lấy bó xương, cánh tay của kẻ nhịn đói, thì cô bật lên tiếng khóc oà, đám đông lấy thế làm vui, và một nhân viên trong ban tổ chức chực sẵn nhảy vọt ra thay thế cô dìu kẻ nhịn đói. Đến bữa ăn, ông bầu dùng thìa đút những miếng nho nhỏ vào miệng gã, gã giờ đây như cái xác không hồn, vừa đút ông vừa huyên thuyên nói đủ thứ chuyện cốt để che giấu tình trạng kiệt lực cũa gã; sau đó ông nâng li với mọi người, chuyển lời chúc mừng của gã mà ông bảo gã vừa nói thầm vào tai ông, mọi lớp lang đều được ban nhạc phụ hoạ bằng tiếng nhạc vang lừng, đám đông tản mát dần, và không ai có lí do gì không thoả mãn với màn trình diễn; không ai ngoại trừ gã nghệ nhân, bao giờ cũng là gã.

Gã sống nhiều năm tháng huy hoàng như thế, xen kẽ giữa những thời kì nghỉ ngơi, nhưng thật ra thế giới vinh danh gã trong tâm trạng gần như đen tối và càng ngày càng đen tối hơn bởi chẳng ai là người xem trọng việc gã làm. Thật vậy, làm thế nào để khích lệ, an ủi gã đây? Gã đòi hỏi gì hơn? Và thi thoảng có tâm hồn từ tâm động lòng thương xót gã tìm cách vạch ra cho gã thấy lí do gã buồn bã sầu khổ có lẽ chỉ vì gã nhịn đói mà thôi, đôi khi gã phản ứng, nhất là khi cuộc nhịn đói đang đến hồi kết thúc, với cơn thịnh nộ lôi đình và gã dộng mạnh chấn song cũi, như con dã thú. Nhưng ông bầu có cách trừng trị mà ông hay áp dụng mỗi khi gã lên cơn như vậy. Ông xin khán giả tha thứ hành vi của gã, ông bảo hành vi đó nên được tha thứ bởi nhịn đói có thể khiến người ta biến tính, trở nên bực dọc, một cảm giác những người ăn uống no đủ không thể nào hiểu nổi, đoạn ông chuyển sang tán dương lời tuyên bố quái đản không kém mà ông bảo là của gã, ông bảo mọi người gã có thể nhịn đói lâu hơn nhiều; ông ca ngợi hoài bão cũng như thiện chí và biết bao ý muốn quên mình hàm chứa trong lời tuyên bố này, nhưng rồi ông tìm cách bôi bác chính điều ông vừa thốt bằng cách trình ra những bức ảnh, lập tức có người đem ảnh đi bán cho đám đông, gã nghệ nhân trong ngày thứ bốn mươi của cuộc nhịn đói, nằm lả trên giường, gần chết vì kiệt lực. Lần nào nghe ông bầu xuyên tạc sự thật như thế, gã cũng cảm thấy nản chí vô cùng và chịu đựng hết nổi. Hậu quả của cuộc nhịn đói chấm dứt sớm hơn dự định ở đây được trình bày như là nguyên cớ! Thật hoàn toàn bất lực với sự ngu xuẩn, với cái trần gian ngu xuẩn này. Lần nào cũng thế gã cố thu hết thiện cảm đứng nắm chấn song cũi vểnh tai nghe ông bầu nói chuyện nhưng ngay khi những bức ảnh xuất hiện gã chán chường quay về chỗ ngồi trên đống rơm với tiếng thở dài áo não, đám đông được trấn an không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra nữa tiến lại gần và tiếp tục giương mắt nhìn chòng chọc vào gã.

Khi những chứng nhân hồi tưởng lại cảnh tượng đó nhiều năm về sau, họ không thể hiểu nổi hành vi của chính họ. Trong lúc đó, như đã nói, công chúng trở nên thờ ơ, họ mất hết thú vị với những màn biểu diễn của gã; chuyện đó dường như xảy ra chỉ trong một sớm một chiều; có thể có lí do sâu sắc hơn, nhưng ai là người cất công đi tìm hiểu cho thấu đáo đây; thế là kẻ nhịn đói xưa nay được trọng vọng một hôm thấy đám đông tìm vui quên hẳn mình, họ lũ lượt kéo nhau qua mặt gã đi xem những trò trình diễn khác thịnh hành hơn. Ông bầu đưa gã đi chu du nửa vòng trời Âu một lần cuối cùng để xem biết đâu vẫn còn có người chú ý đến kẻ nhịn đói, nhưng tất cả chỉ là vô vọng; như thể có giao ước giữa mọi người và bằng chứng hiển hiện khắp nơi cho thấy quả thật người ta đã hoàn toàn thay đổi thị hiếu với trò nhịn đói. Công tâm mà nói chuyện đó chẳng thể nào thật sự xảy ra một cách đột ngột như thế, và bây giờ ngẫm lại thì lúc đó quả có những dấu hiệu cảnh báo cho thấy sự xuống dốc phai nhạt nhưng chẳng ai thèm quan tâm hoặc đứng ra làm điều gì bởi họ còn đang say sưa trong men thành công, nhưng bây giờ thì đã quá trễ để đưa ra bất cứ biện pháp đối phó nào. Dĩ nhiên trò nhịn đói sẽ có ngày trở lại, nhưng điều đó chẳng đem lại niềm an ủi nào cho những người đang mưu sống. Kẻ nhịn đói phải làm gì đây? Một khi đã được cả ngàn người ca tụng, ngợi khen gã chẳng bao giờ chịu hạ cố xuất hiện trong một màn trình diễn phụ ở hội chợ dưới làng quê, hay bắt đầu làm lại sự nghiệp khác, gã đã già lắm rồi, nhưng điều quan trọng hơn hết là gã quá nhiệt tâm tin tưởng vào nghệ thuật của gã. Vì thế gã chia tay ông bầu, kẻ đồng hành trong suốt sự nghiệp chưa từng thấy đó, và tìm được việc làm trong một gánh xiệc lớn; không muốn cảm xúc mình bị chi phối, gã không buồn đưa mắt nhìn vào các điều khoản trong bản hợp đồng.

Một gánh xiệc khổng lồ, người, thú, đồ thiết bị thường xuyên di chuyển rày đây mai đó, người ra người vào, luôn luôn có chỗ cho bất cứ ai muốn tìm công việc làm ngay cả người đó là kẻ nhịn đói, dĩ nhiên với điều kiện gã không được đòi hỏi nhiều, ở trường hợp đặc biệt này người ta thuê gã không phải chỉ vì gã là gã mà cả cái tên tuổi lẫy lừng bấy lâu của gã nữa; thật vậy, nhìn vào tính cách đặc biệt của nghệ thuật gã, vốn không hề suy suyển cùng năm tháng tuổi già, không ai có thể bảo gã là kẻ nghệ sĩ hết thời đang tìm nơi dưỡng già hưởng nhàn trong gánh xiệc; ngược lại là đằng khác, kẻ nhịn đói hứa hẹn một cách đầy tin tưởng—và có đầy đủ lí do để tin gã—là gã vẫn còn khả năng nhịn đói tài tình như thuở nào; gã còn tuyên bố nếu được phép, người ta cho phép gã ngay, gã sẽ thật sự làm thế giới sửng sốt kinh ngạc với thành quả ngoài mức tưởng tượng của mọi người, mặc dù lời khẳng định này, gã nói trong lúc hăng say, mau chóng đi vào quên lãng, nó chỉ làm những tay chuyên nghiệp nhếch mép mỉm cười.

Nói thế nhưng gã chưa đến nỗi mất hết mọi ý thức về thực tại và gã chấp nhận sự kiện đương nhiên chiếc cũi của gã không có vinh dự đặt giữa sân khấu gánh xiệc nơi dành riêng cho những màn trình diễn chính nổi bật, nó nằm khiêm nhường bên ngoài rạp, cạnh chuồng nhốt súc vật, nhưng vẫn có lối đi cho người vào xem. Mấy tấm biển lớn màu mè treo quanh cũi miêu tả món vật bên trong. Giờ nghỉ giải lao khán giả túa ra đi xem thú, bắt buộc họ phải đi ngang cũi của kẻ nhịn đói và họ ngừng lại đôi ba phút; có thể họ sẽ lảng vảng tại đó lâu hơn nếu đám đông từ lối đi chật hẹp đằng sau không xô đẩy họ, đám đông nôn nóng muốn ra xem thú không hiểu chuyện gì khiến dòng người khựng lại, và bởi thế không ai có thể đứng lâu nhìn ngắm kẻ nhịn đói. Đấy cũng là lí do tại sao gã run sợ mỗi lần thấy đám đông tràn tới mặc dù đương nhiên gã mong đợi đến giờ mọi người ra chiêm ngưỡng thành tích cả cuộc đời gã tích lũy. Thoạt tiên gã nôn nóng mong đến giờ nghỉ giải lao; gã sung sướng nhìn đám đông đang ùa tới, nhưng rồi ngay lập tức gã thấy rõ—dù gã tự dối lòng cách mấy chăng nữa—đám người này, chí ít qua hành vi cùng thái độ của họ, không hề mong muốn gì khác hơn là ra xem bầy thú vật nhốt trong chuồng. Và cảnh tượng đám đông nhìn thấy lần đầu từ khoảng cách xa xa vẫn là hình ảnh đẹp đẽ nhất trong lòng gã. Bởi ngay khi họ túa đến gần, tai gã như ù điếc với tiếng la hét chửi rủa từ hai phe chống chọi nhau, một phe muốn ngừng lại để nhìn gã—gã thấy đám này còn tệ lậu đáng ghét hơn đám kia—chẳng phải vì họ thật sự thích thú gì mà chỉ vì họ là những con người táo tợn và ngạo ngược, còn phe kia là những người chỉ muốn đi thẳng ra chuồng thú. Đằng sau đám đông chen lấn ồn ào là những người chậm chân hơn, và mặc dù họ có thể ngừng lại bao lâu cũng được nhưng họ vẫn sải bước đi nhanh về phía chuồng thú, khi đi ngang cũi họ chỉ ném cho gã cái liếc mắt thật nhanh. Lâu lắm, năm thì mười hoạ, gã mới may mắn được gia đình gồm người cha dẫn bầy con đến xem, người cha chỉ tay vào kẻ nhịn đói, ông giải thích cặn kẽ cho đám con nghe về hiện tượng này, ông kể chuyện thuở xưa khi ông từng tham dự những buổi trình diễn tương tự nhưng quy mô hơn nhiều, và đám trẻ, suốt đời chúng và cả trong trường học, chẳng bao giờ nghe nói đến chuyện này nên chúng hoàn toàn mù tịt—chúng không hiểu kẻ nhịn đói là gì—nhưng ánh mắt tò mò nơi đám trẻ hứa hẹn thời sắp tới có thể tốt lành và tử tế hơn. Thi thoảng kẻ nhịn đói nghĩ thầm biết đâu hoàn cảnh gã sẽ sáng sủa hơn nếu người ta đừng đặt gã quá gần chuồng thú. Như thế khách đi xem sẽ dễ dàng chọn lựa cái muốn xem, chưa kể chuồng thú hôi hám chịu không nổi, đám thú chộn rộn suốt đêm, từng tảng thịt sống được khuân tới nuôi đám thú ăn thịt, tiếng gầm thét của chúng mỗi buổi ăn, chừng đó thứ ngày đêm như chọc vào tim óc gã. Nhưng gã chẳng bao giờ dám ngỏ lời than vãn lên ban giám đốc; dù sao gã phải cám ơn bầy thú, nhờ có chúng rất nhiều khán giả đi ngang cũi của gã, trong số thể nào cũng có người đến chỉ để xem gã, và hơn nữa chỉ có trời biết họ sẽ dời cũi đi đâu nếu gã đánh tiếng cho họ hay biết về sự hiện hữu của gã và sẽ đưa đến sự kiện, không ngoa chút nào, gã chỉ là vật trở ngại nằm trên lối đi dẫn ra chuồng thú, không hơn không kém.

Một trở ngại không đáng kể, chắc chắn rồi và trở ngại đó càng ngày càng không đáng kể. Thời buổi bây giờ người ta thấy lạ lùng khi đề cập đến kẻ nhịn đói, và trong chiều hướng này gã là kẻ lãnh nhận hậu quả không mấy hay. Gã có thể nhịn đói rất giỏi, và gã giỏi thật, nhưng không ai cứu gã, người người qua lại không ai thèm quan tâm đến gã nữa. Hãy thử giải thích cho người nào đó nghe về nghệ thuật nhịn đói xem! Nếu không có cảm xúc gì về nghệ thuật đó, không ai hiểu nổi nó là gì. Mấy tấm biển nhiều màu trở nên bẩn thỉu, chữ viết nhoè nhoẹt không đọc được nữa, chúng nằm chỏng trơ dưới đất và chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện thay biển mới; tấm bảng nhỏ ghi số ngày nhịn đói thoạt tiên mỗi ngày tăng một số, nay vẫn còn nguyên con số cũ, lâu lắm rồi không thay đổi, bởi chỉ sau mấy tuần lễ đầu nhân viên làm việc đã phát chán, chẳng ai buồn rớ tới công việc dù nhỏ nhặt này nữa, và bởi thế kẻ nhịn đói cứ thế nhịn đói như gã từng mong ước có ngày thực hiện, và điều đó chẳng khó khăn gì với gã, như gã vẫn hằng tiên đoán, nhưng không ai ghi xuống số ngày nhịn đói của gã nữa, không ai, kể cả gã, biết đích thực thành quả của gã là gì, và tinh thần gã sa sút cực độ. Thi thoảng có người lảng vảng quanh đó buông lời nhạo báng dè bỉu con số trên tấm bảng, ngầm bảo có sự gian trá trong đó, thật là lời bịa đặt ngu xuẩn nhất, xuất phát từ lòng hiểm ác và sự thản nhiên tàn độc, bởi gã nghệ nhân nhịn đói không hề gian dối; gã thật tình, trong khi thế gian lường gạt, cướp đi thành quả của gã.

Tuy vậy, nhiều ngày nữa trôi qua và chuyện gì cũng đến lúc kết thúc thôi. Người quản lí một hôm thốt nhiên trông thấy chiếc cũi, ông quay sang hỏi người phụ tá tại sao chiếc cũi vô cùng hữu dụng như thế lại bị bỏ không với đám rơm rạ mục thối bên trong; không ai có câu trả lời cho đến khi có người, nhờ tấm bảng nhỏ treo trên cũi, sực nhớ ra kẻ nhịn đói. Họ lấy gậy chọc vào đám rơm và tìm thấy gã đang nằm vùi trong đó. “Anh vẫn còn đang nhịn đói đấy à?” Người quản lí cất tiếng hỏi. “Trời đất ơi! Tới chừng nào anh mới chịu ngưng đây?” “Xin mọi người tha thứ cho tôi.” Kẻ nhịn đói thều thào nói vọng ra; chỉ có người quản lí ghé tai sát chấn song cũi mới hiểu gã nói gì. “Hẳn nhiên rồi,” người quản lí nói, vừa nói ông vừa lấy ngón tay gõ gõ lên thái dương ngầm bảo cho mọi người biết về tình trạng của kẻ nhịn đói, “chúng tôi tha thứ cho anh.” “Lúc nào tôi cũng mong được các người thán phục tài nhịn đói của tôi.” Gã nói. “Vâng, chúng tôi phục tài anh lắm,” người quản lí nói cho gã vừa lòng. “Nhưng mấy người đừng nên thán phục tôi,” kẻ nhịn đói lại nói tiếp. “Vâng, chúng tôi không thán phục anh nữa,” người quản lí đáp lời, “nhưng tại sao chúng tôi không nên thán phục anh?” “Bởi vì tôi phải nhịn đói, tôi không thể làm gì khác hơn,” gã trả lời. “Anh quả là con người khác thường, tại sao anh không thể làm gì khác hơn?” “Bởi vì,” kẻ nhịn đói trả lời người quản lí, đầu gã hơi nhỏm dậy, môi gã nhếch lên như định hôn ai, gã nói thẳng vào tai người quản lí để không một lời một chữ nào của gã lọt ra ngoài, “bởi vì tôi chẳng bao giờ tìm ra thức ăn tôi thèm ăn. Giá như tôi tìm ra thứ tôi thèm ăn, tin tôi đi, tôi sẽ chẳng bao giờ gây chuyện ầm ĩ như vầy làm gì, tôi sẽ nhét đầy bụng giống như ông hay bất cứ ai khác thôi.” Đấy là câu nói cuối cùng thốt ra từ miệng kẻ nhịn đói, nhưng trong đôi mắt lấp lánh của gã vẫn còn niềm tin chắc nịch, nếu không còn là tự hào nữa, cuộc nhịn đói của gã vẫn đang tiếp diễn.

“Dẹp! Dẹp sạch chỗ này, ngay!” Người quản lí quát bảo nhân viên, và họ đem kẻ nhịn đói đi chôn cùng với đống rơm. Sau đó họ nhốt trong cũi một con beo. Thật là mát mắt, người ít chú tâm nhất cũng phải nhận ra, khi thấy con dã thú nhảy lên nhảy xuống bên trong chiếc cũi tối tăm buồn bã suốt thời gian quá lâu. Con beo có vẻ ung dung lắm. Nhân viên canh gác đem thức ăn đến cho nó, nó há mõm ăn ngay không do dự; dường như nó chẳng nuối tiếc sự tự do của nó chút nào; toàn than nó tràn trề sức sống như chứa đựng sự tự do; sự tự do như chấn ngự nơi hàm răng nó, và nỗi vui sống bốc cháy trong cổ họng nó mãnh liệt đến nỗi người xem không dám nhìn. Nhưng họ cố thu hết can đảm, xúm lại chung quanh cũi và chẳng bao giờ muốn bỏ đi.

 

— Trịnh Y Thư dịch từ Franz Kafka: The Metamorphosis and Other Stories, ấn bản Anh ngữ của Donna Freed, tủ sách Barnes & Noble Classics, New York, 2003.

 

 

.

bài đã đăng của Franz Kafka