- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

lá Thư Từ Kinh Xáng (Một lời bạt cho Vu Quy)

(Một lời bạt cho Vu Quy)

cau_vuquy

Kinh xáng Bốn Tổng ngày 26 tháng 5 năm 2009

Thưa nhà văn Nam Dao,

Số là mấy tháng trước, tôi có lò mò đọc được truyện “Vu Quy” của ông, tôi xin phép được gọi tác giả bằng “ông” như vậy cho phải lễ, dù tôi rất ớn viết thơ từ cho giới văn nhân thi sĩ, mà lại là văn nhân thi sĩ thứ thiệt như ông; bởi một lẽ rất đơn giản vì tôi nay già cả rồi mà lại là hạng già nhà quê ruộng rẫy mới chết một cửa tứ nữa chứ. Thành ra viết thơ từ cho văn nhân thi sĩ chẳng khác nào mình dám “múa rìu qua mắt thợ” chớ phải chuyện giỡn chơi đâu. Tôi dạo đầu như vậy chắc là tác giả biết tôi có ý muốn viết gì rồi….

Dĩ nhiên, là không có chuyện khen chê tác giả viết trúng, viết trật làm gì vì người đần độn cách mấy cũng không dám làm chuyện ba trợn ấy, nói gì tôi chưa đến đổi ba trợn như vậy. Bởi lẽ, khen văn Nam Dao hay, té ra là mình muốn làm thầy nhà tiểu thuyết sao? Còn chê văn Nam Dao dở, hóa ra là mình có gan bằng trời ư ? Cả hai việc khen và chê ấy, thú thiệt là tôi không bao giờ dám rớ tới và tôi xin nhường cho các bậc thức giả, các nhà phê bình văn học thuộc hạng thượng thừa họ làm công việc trời phú cho họ. Phải thế hông thưa ông?

Trở lại với truyện “Vu Quy,” phần mở đầu, ông viết:

Ký là sinh, quy là tử, sống là gửi sao vẫn ham, và chết là về nhưng sao vẫn sợ. Còn vu, như tĩnh từ, là quanh co, bồng bềnh. Cũng có thể hiểu là lao đao. Vu quy, là về nhà chồng, với những giọt nước mắt, khi khóc vì buồn, khi khóc vì vui. Nhưng chưa bao giờ những giọt nước mắt ấy lại kết thành những viên ngọc trai, huyền thoại vu quy ở thời hiện tại, một thời lẽ ra phải khác. Kể dưới dạng tiểu thuyết, huyền thoại này là hiện thực, và không qua thủ pháp ngụ ngôn của văn chương ẩn dụ, nên là thứ hiện thực trần truồng. Những ai không thích loại hiện thực này xin đọc ngay lời bạt, phần tóm lại huyền thoại cho thật gọn, như những truyện cổ tích để đọc trong một chớp thời gian.

Tôi lại tự đặt mình vào chỗ tác giả ghi “những ai không thích …,” và lần xuống cuối truyện đọc thử ”lời bạt”: 

Ngày xưa, có một thằng nhỏ tên Thẻo, vào chùa mài dao. Trước khi dao sắc, Thẻo chỉ là một người bình thường, rất bình thường… Nó thương một giọng hò và yêu người con gái hò những câu hò mộc mạc đầy ắp nghĩa tình. Người con gái đó, tên Tư, buộc phải bỏ ruộng đồng lên thành phố. Những câu hò chất phác bắt phải hội nhập vào phồn hoa đô hội chát phấn bôi son trong cuộc phấn đấu cộng sinh ngày một kịch liệt. Cuộc cộng sinh này có nguy cơ thành phế phẩm của mọi niềm tuyệt vọng khiến sống là một tội lỗi. Tội lỗi với xã hội giữa người với người, một xã hội có cái gì – khác đi – và nằm ngoài – quan hệ hàng hoá trong diễn biến toàn cầu của một thế giới đang chuyển động về mức tận cùng mọi lịch sử, mức tận kiệt của mọi động thái tiến hóa.  

Huyền tích về những trang hiệp sĩ từ Đông sang Tây đều kể lại những tấm gương thế thiên hành đạo. Hiệp sĩ thời nay, đúng truyền thống, sẽ là phải kẻ gây ra cái chết của tất cả những cuộc sống vô tình. Chết, bởi sống vô tình là tội lỗi. Là sống nhục. Vì thế, chết có thể là giải thoát. Nhưng chỉ chết cho mình, là chết hèn. Mài dao, dao rồi sắc, nhưng tuyệt vọng. 

Thẻo chẳng thể đâm chém bất cứ ai, kể cả người yêu đã sẵn sàng cùng sống cùng chết. Chỉ còn sức tự xử, nó xông ra khơi khi giông cao bão cả, để thân xác vỡ vụn lắng xuống đáy nước, kết thành một con trai biển. Người con gái tên Tư không kịp cất tiếng hò một lần cuối, cũng lao ra khơi, khóc để từ đấy trai thành trai ngọc, lòng đơm những hạt long lanh nước mắt con gái ngày vu quy, đánh dấu một thời bằng huyền thoại. Một thời lẽ ra không cần huyền thoại. Và phải khác đi thôi.

Thưa ông Nam Dao,

Qua hai phần mở và kết của “Vu Quy,” do tánh tò mò, tôi mới lò mò vô cái ruột xem coi Thẻo và Tư là ai mà lao đao, khốn đốn như vậy. Té ra, đây là một chuyện tình giữa hai đứa bé nhà quê sau chiến tranh bị cản trở bởi cái thời phải đi lấy chồng xa, xa tới bên kia biển bắc mà ra nông nổi đoạn trường như truyện kể. Rồi tôi mới thấy cái bà dì người Tàu dẫn đường chỉ lối giống như một mụ Tú Bà. Rồi còn nữa, nào là ông thầy tu với một thời “tu theo thuở ở theo thời” dù chưa “đắc quả” nhưng cũng tạm là người hữu ích vào những khi hữu sự; và rồi cũng có cả hình ảnh của Mã Giám Sinh thời hiện đại giữa vùng quê nữa. Và còn nhiều lắm những chấm phá của một bức tranh quê với biết bao đám mây đen bao phủ của một vùng biển gió mùa nhiều mưa bão…

Nói gì dưới Cà Mau, ngay tại các làng gần gần với kinh cùn rạch cạn của miệt tôi trên này như Tân Lộc Đông, Tân Lộc Tây, Vĩnh Trinh, Đất Sét, Tân Mỹ, Long Hưng, Gia Vàm và nhiều làng quê khác nữa mà hồi đời trước lúc Tây bố hoặc thời kỳ chiến tranh ly loạn vào dạo những năm đầu thập niên 1960 cho dĩ chí gần cuối thập niên 1970, xuồng ghe muốn đi chợ, đi xay lúa, hoặc bồng chống nhau tản cư đều phải nhào xuống bùn mà đẩy xuồng chứ chèo bơi gì nổi; vậy mà ngày nay đi đâu cũng thấy nhà nhà tường cao, ngói đỏ, rào kín quanh nhà và không cần biết con cái nhà ai, gia phong thế nào, ai ai cũng có thể đoán biết đa phần các nhà ấy đều có con “vu quy” xa xứ ráo trọi.

Những câu chuyện “vu quy” ấy mới đầu nó rất lạ, riết rồi quen dần và trong láng giềng chòm xóm với nhau trong làng, trong ấp vì chỗ tương lân làm ruộng giáp ranh nên không ai dám gợi chuyện hay nhắc nhở gì những cảnh lấy chồng xa xứ ấy. Bởi đó không phải là chuyện tâm tình, hay chuyện giỡn chơi khi trà dư tửu hậu mà là cái giá hy sinh của những cô gái vùng quê chơn chất vì chữ hiếu với gia đình. Vì thế, nhắc đến những gì mà họ hy sinh và chịu đựng dù vô tình hay cố ý đều là một cách xúc phạm đến việc “vu quy” của họ. Và với cái dáng vẻ bề ngoài tưởng chừng như khá giả, giàu có, ấm êm, hạnh phúc ấy nó lại là niềm đau vô bờ, là những mặc cảm tội lỗi không dứt của những tâm hồn chơn chất quê mùa, của những bậc làm cha mẹ, của những cô dâu hay họ hàng của họ mà không ai có thể đếm được hết biết bao nỗi đoạn trường. Ở nhà quê tụi tôi rất ớn mỗi khi có ai phải nhắc về cái tì vết không mấy vui vẻ ấy của những người láng giềng gả con xa ông à! Âu cũng đành phải chấp nhận cái số phần “chi-tử vu-quy” như câu ca dao mà hồi nhỏ tôi thường nghe người xưa hay nhắc hoài:

“Chữ rằng chi-tử vu quy,

Làm thân con gái phải đi theo chồng.”

Thưa ông Nam Dao,

Theo cái trí ngu mà tôi biết được thì cái hay của tiểu thuyết, bất kể vào thời nào, là làm sao nó cuốn hút được người đọc từ những dòng đầu tới dòng cuối. Làm được điều đó, nhà văn phải có tài viết văn, dựng truyện đã đành, mà còn phải biết rành tâm lý nhân vật, cùng tính khí người đọc; nhất là thời buổi không còn nhiều người mê đọc sách trên giấy in như ngày nay thì cách cuốn hút người đọc trong tiểu thuyết lại càng khó vô cùng. Câu chuyện trong tiểu thuyết “Vu Quy” của ông là một đề tài cũ, báo chí thường nhắc tới mỗi ngày như ăn cơm bữa, thế nhưng tác giả Nam Dao đã làm mới một câu chuyện tình khá éo le, gay cấn…

Tôi không rành những cảnh đời của các cô gái quê của những làng quê xứ tôi cơ duyên nào họ lấy được những tấm chồng xa xứ ấy; nhưng đọc truyện ông viết về Tư và Thẻo ở Cà Mau, quả thiệt là vô cùng hồi hộp, cảm động và hấp dẫn. Tôi tin đó là ba điều mà tôi có được sau khi đọc “Vu Quy” của ông. Cái kết của câu chuyện vẫn còn là một “huyền thoại“, nhưng người già như tôi vẫn nao nao trong lòng khi biết Thẻo và Tư không còn có một cơ hội nào nữa để cho nhau một lần “thương nhau” như trên “Bãi Bùng” với mùa bắt cua cùng những giọt máu tinh khôi làm thành một đời sống khác, sau này… Thật là buồn… Buồn cho Thẻo, buồn cho Tư và buồn cho đời…. Sau cùng, trong cái buồn của người đọc già như tôi, dù sao, tôi cũng hy vọng “Vu Quy” của ông với Thẻo và Tư cũng chỉ là một câu chuyện tiểu thuyết tân thời thôi ông à.

Và tôi xin mạo muội có mấy ý vụn vặt này cùng ông vậy.

Nay thư,

Hai Trầu

bài đã đăng của Hai Trầu

2 Comments (Open | Close)

2 Comments To "lá Thư Từ Kinh Xáng (Một lời bạt cho Vu Quy)"

#1 Comment By Nam Dao On 03/07/2009 @ 6:50 am

Kính gởi ông Hai Trầu
Tôi xin phép gọi ông bằng ”ông”, bởi ông gọi tui như vậy, và nếu như tui kêu ông bằng anh cho thân mật thì tui trở thành kẻ thất lễ với ông sao cho đặng. Trước hết, cám ơn ông cho Vu Quy một vài lời ân cần, và nhất là nỗi đau lòng khi Thẻo và Tư, hai đứa trẻ yêu nhau, không còn cái duyên may mà thương nhau trên Bãi Bùng mùa cua lên bãi. Tui cũng đau, đau cho những người con gái quê mình nay phải thành Kiều tân thời, đau cho đời nay thiếu Từ Hải nhưng rất nhiều những ”đại gia”(đang làm giầu, và thế là yêu nước, tức là yêu XHCN như người ta tuyên ngôn dài dài). Và thương cho những bậc cha mẹ phải bặm môi khi nghe xì xào về cái chuyện con gái phải lỡ bước sang ngang, chẳng phải qua sông mà là vượt biển, đặng cứu giúp gia đình khổ cực.
Thưa ông, nghèo quả là nguồn gốc sâu nhất của nỗi sống nhục.
Có phải vì vậy mà cứ chết là xong đâu.
Bởi Thẻo và Tư có chết đi, nhưng miệt sông biển nước mình nay đầy những con trai đơm ngọc, ông Hai à. Những con trai trong huyền thoại tân thời này không chỉ là câu chuyện tiểu thuyết tân thời: chúng bức bách ta hỏi, hỏi mình, hỏi đồng bào mình, tại sao nghèo để buộc sống nhục. Và nhất là, thưa ông, làm thế nào thoát khỏi cái nghiệp chướng này đây! Đề cho một thời không cần huyền thoại. Một thời phải khác đi thôi.
Thân kính

#2 Comment By nguyen On 01/03/2014 @ 12:54 am

thưa bác cháu đang làm đề tài khoa học về “thân phận con người” trong Vu Quy.Tiểu thuyết này cũng vừa mới xuất hiện trên thị trường sách vì vậy cháu không có nhiều tài liệu của các bậc sư phụ để nghiên cứu, vì vậy cháu phần nhiều chỉ biết ôm lấy văn bản và nghiên cứu thôi.cháu cảm nhận được rằng, nội dung về Vu Quy nhìn chung không còn mới lạ với độc giả nữa. Nhưng khi đến với Vu Quy của bác cháu dường như cảm nhận được cái nỗi đau của con người Nam Bộ.Tuy nhiên nói thì dễ nhưng để đi vào làm hoàn thành được một bài báo cáo khoa học thì thật không đơn giản.Bác có thể cho chau thêm một số thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của bác được không ah.