Trang chính » Dịch Thuật, Sáng Tác, Sang Việt ngữ, Trích đoạn tiểu thuyết Email bài này

Lược Sử Máy Cày Bằng Tiếng Ukraine

♦ Chuyển ngữ: 0 bình luận ♦ 15.01.2020
Marina Lewycka

Trích đoạn tiểu thuyết – Marina Lewycka
Chuyển ngữ – Hoàng Chính

Marina Lewycka

Lời người dịch: Marina Lewycka ra đời (1946) trong một trại tị nạn ở Kiel, Đức Quốc khi Thế Chiến II chấm dứt và lớn lên ở Anh Quốc. Bà dạy tại Sheffield Hallam University và là tác giả của 6 tác phẩm văn chương và nhiều sách về chủ đề săn sóc các vị cao niên. Tiểu thuyết đầu tay A Short History of Tractors in Ukrainian (Lược Sử Máy Cày Bằng Tiếng Ukraine) được đề cử giải Man-Booker (2005) và vào chung kết Orange Prize for Fiction, đã được dịch ra 35 thứ tiếng. Đây là câu chuyện về hai chị em sau một thời gian dài không liên lạc với nhau, đã phải chung sức để chống lại “kẻ thù chung” là người đàn bà trẻ mà thân phụ hai người – một ông già goá vợ, kỹ sư về hưu đang soạn thảo bộ lược sử máy cày bằng tiếng Ukraine – dự tính cưới để giúp bà ta định cư ở Anh Quốc. Trong cuộc “chiến tranh” thu gọn ấy, họ dần khám phá ra những bí mật của gia đình, những thăng trầm của đời sống trong thời kỳ nạn đói ở Ukraine và cuộc thanh trừng của Stalin. Bản Việt ngữ trong số báo này là trích đoạn chương 1: Two Phone Calls and a Funeral từ tiểu thuyết nói trên, do nhà The Penguin Press xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2006.

Mẹ tôi mất được hai năm thì ba tôi phải lòng một phụ nữ Ukraine, tóc vàng và ly dị chồng. Ba tôi tám mươi tư tuổi và bà ấy ba mươi sáu. Bà ấy nổ tung vào đời sống chúng tôi như một trái lựu đạn xốp màu hồng, khuấy động làn nước đục, đẩy lên bề mặt một mảng bùn của những kỷ niệm đã tróc lở, tặng cho những bóng ma gia đình một cú đá hậu ngoạn mục.

Tất cả bắt đầu bằng một cú điện thoại.

Giọng của ba tôi, run run đầy khích động, khọt khẹt qua đường dây.

“Tin vui, Nadezhda. Ba lấy vợ!”

Tôi nhớ lúc ấy máu dốc ngược lên đầu tôi. Lạy trời ba tôi chỉ nói đùa thôi! Ôi, ba mát dây mất rồi! Ôi, ông già lẩm cẩm! Dĩ nhiên tôi chỉ nghĩ chứ không nói ra những điều đó.

“Ồ, vậy hở ba!” tôi nói.

“Ừ, ừ. Cô ấy đến từ Ukraine với thằng con trai. Ternopil ở Ukraine.”

Ukraina. Ông thờ dài, hít vào mùi hương hoài niệm của cỏ vừa mới cắt và hoa anh đào. Nhưng tôi nắm bắt được cái mùi tổng hợp của nước Nga.

“Cô ấy tên là Valentina, ba tôi nói. Nhưng trông cô ấy giống Venus. Nàng Vệ Nữ của Botticelli vươn lên từ những con sóng. Tóc vàng óng. Mắt gợi tình. Ngực đẳng cấp. Lúc gặp cô ấy con sẽ hiểu.”

Cái phần người lớn trong trong tôi thì chiều chuộng. Dễ thương biết chừng nào, cánh hoa tình nở muộn. Cái phần đứa con ruột trong tôi thì giận điên lên. Quân phản bội! Ông già dịch vật! Mẹ chúng tôi mất chưa tròn hai năm. Tôi vừa nổi giận vừa tò mò. Tôi nôn nóng muốn gặp người đàn bà đã đảo chánh mẹ tôi.

“Bà ấy nghe có vẻ nóng bỏng. Chừng nào thì con gặp bà ấy được?”

“Đám cưới xong thì gặp.”

“Con nghĩ gặp trước thì tốt hơn chứ, ba?”

“Tại sao con muốn gặp? Con có cưới cô ta đâu.” (Ông biết có gì đó không ổn, nhưng ông nghĩ ông có thể lờ đi được.)

“Nhưng ba à, ba nghĩ kỹ chưa? Có vẻ vội quá đấy. Ý con muốn nói là bà ấy trẻ hơn ba nhiều quá.”

Tôi cố uốn giọng thật kỹ để che giấu bất kỳ dấu hiệu nào của sự phản đối, như một người lớn rành rẽ sự đời đối đầu với một đứa thiếu niên vừa bị tiếng sét ái tình.

“Ba mươi sáu. Cô ấy ba mươi sáu còn tao thì tám mươi bốn. So what?” (Ông phát âm what thành vat?) Có chút bực bội trong giọng nói của ông. Ông đã đoán trước câu hỏi.

“Thì… tuổi tác cách xa nhau quá mà…”

“Nadezhda à, ba không ngờ con lại nặng đầu óc tiểu tư sản như thế.” (Ông nhấn mạnh chữ – saaaản!) 

“Không, không đâu.” Ông đẩy tôi lui vào thế tự vệ. “Chỉ là… sẽ có vấn đề.”

Sẽ không có vấn đề gì hết, ba tôi nói. Ông đã dự đoán tất cả mọi vấn đề rồi. Ông quen biết bà ta đã ba tháng rồi. Bà ta có ông cậu ở Selby và qua đây thăm ông ấy qua giấy thông hành du khách. Bà ấy muốn tạo lập một cuộc sống mới cho bà và con trai bà ở Phương Tây, một cuộc sống tốt đẹp, việc làm tốt, tiền lương cao, sắm xe đẹp – nhất định không là mấy chiếc Lada hay Skoda – giáo dục tốt cho con trai – phải là Oxford, Cambridge, ít ra cũng phải như thế. Thêm vào đó, bà ta còn là một phụ nữ có trình độ. Bà có bằng cấp trong ngành dược. Khi học xong Anh ngữ ở đây, nhất định bà ấy sẽ tìm được việc làm có lương cao. Trong khi chờ đợi, ba tôi sẽ giúp bà ấy học Anh văn, còn bà ấy thì lau chùi nhà cửa và chăm sóc ông. Bà ấy ngồi trên lòng ba tôi để mặc ba tôi mân mê ngực bà ấy. Họ hạnh phúc quá trời quá đất.

Tôi nghe có đúng không vậy nè? Bà ấy ngồi trên lòng ba tôi còn ba tôi thì mân mê bộ ngực Botticelli đẳng cấp của bà ta?

“Ồ, thì…” Tôi cố nói giọng đều đều, nhưng trong lòng tôi thì bừng bừng lửa giận. “…đời sống đầy những bất ngờ, ba à. Con hy vọng mọi chuyện sẽ suông sẻ cho ba. Nhưng mà, ba à” – đã đến lúc tôi phải thẳng thừng – “Con có thể đoán ra vì sao ba muốn cưới bà ấy. Nhưng ba phải tự hỏi lòng là vì sao bà ấy muốn lấy ba?”

“Biết, biết chứ, tao biết mà. Sổ thông hành. Visa. Giấy phép làm việc. So vat?” Giọng nói khàn khàn bực bội.

Vậy là ba tôi đã tính hết rồi. Bà ấy sẽ chăm lo cho ba khi ba già hơn và yếu hơn. Ông sẽ lo cho bà ấy một mái nhà để nương náu, chia sẻ chút tiền hưu dưỡng nhỏ nhoi với bà ấy cho đến khi bà ấy tìm được việc làm có lương cao. Con trai bà ấy – hẳn nhiên, là một thằng bé tài năng xuất chúng – thiên tài – chơi dương cầm – sẽ được hưởng nền giáo dục của Anh quốc. Họ sẽ bàn luận nghệ thuật, văn chương, triết học với nhau vào buổi tối. Bà ấy là một phụ nữ có học vấn, chứ không phải một chị nhà quê bép xép. Đồng thời, ông đã tỏ tường cái nhìn của bà ấy về Nietzsche và Schopenhauer, và bà ta đồng quan điểm với ông về mọi mặt. Bà ta, cũng như ông, ngưỡng mộ nghệ thuật Khuynh Hướng Kiến Tạo và khinh bỉ trường phái Tân Cổ Điển. Họ có nhiều điểm tương đồng. Một nền tảng lành mạnh cho hôn nhân.

“Nhưng ba à, ba không nghĩ là nếu như bà ấy lấy người đồng trang lứa thì có lợi cho bà ấy hơn sao? Chính phủ sẽ phát hiện ra ngay rằng đây là thứ hôn nhân mua bán trao đổi. Người ta đâu có ngu.”

“Hừ!”

“Cuối cùng bà ấy cũng bị trục xuất thôi.”

“Hừm.”

Ông chưa nghĩ tới điều này. Nó có làm ông chậm lại, nhưng không ngăn ông tiếp tục công chuyện. Con thấy đó, ông giải thích, ba là niềm hy vọng cuối cùng, là cơ hội cuối cùng giúp cô ấy thoát khỏi cái cảnh bị áp bức, sống trong nghèo đói, phải bán thân nuôi miệng. Đời sống ở Ukraine quá khó khăn cho những tâm hồn mỏng manh như cô ta. Ba đã đọc báo, và tin tức thật là u ám. Không bánh mì, không giấy vệ sinh, không đường, ao tù nước đọng, xã hội toàn những thứ gian dối, và điện thì lúc có lúc không. Làm sao ba có thể xô đẩy một người đàn bà đáng yêu vào cái cảnh ấy chứ? Thấy cảnh ấy, làm sao ba có thể làm lơ mà bước tránh qua phía bên kia đường chứ?

“Nadezhda, con phải hiểu rằng ba là người duy nhất có thể cứu cô ấy!”

Quả đúng như vậy. Ông đã cố gắng. Ông đã làm hết sức mình. Trước khi dự tính cưới bà ấy, ông đã tìm kiếm cho bà ấy một người chồng vừa ý khắp nơi. Ông đã tìm đến nhà Stepanenkos, một cặp vợ chồng già người Ukraine, có một cậu con trai độc thân còn sống với bố mẹ. Ông đã liên lạc với ông Greenway, một ông góa vợ trong làng có cậu con trai thỉnh thoảng vẫn về thăm bố. (Một con người nhạy cảm. Một kỹ sư. Không phải thứ dân thường. Cặp với Valentina thì quá là hợp.) Cả hai chỗ đều từ chối: Đầu óc họ quá là hẹp hòi. Ông nói với họ như thế, rành mạch từng chữ. Bây giờ cả hai nhà Stepanenkos và ông Greenway đều không chơi với ông nữa.

Cộng đồng người Ukraine ở Peterborough thì xa lánh cô ta. Cái đám ấy cũng đầu óc hẹp hòi. Quan niệm của cô ấy về Nietzsche và Schopenhauer đều không gây ấn tượng gì nơi họ. Họ bị buộc chặt vào quá khứ, chủ nghĩa quốc gia Ukraine, Banderivtsi. Cô ấy là người phụ nữ hiện đại, đầu óc phóng đãng. Họ phao những tin đồn ác độc về cô ấy. Họ nói cô ấy bán dê và bò của mẹ cố ấy để mua dầu bóng bôi lên mặt mà lôi cuốn bọn đàn ông phương Tây. Họ nói toàn chuyện nhảm nhí. Mẹ cô ấy nuôi gà và heo chứ có nuôi bò với dê bao giờ đâu. Điều đó chứng tỏ bọn phao tin đồn là lũ ngu ngốc biết chừng nào.

Ông ho và phun phì phì ở đầu dây. Ông đã mất hết bạn bè vì chuyện này, nếu cần ông cũng sẽ từ luôn mấy đứa con gái. Một mình ông lẻ loi chống lại cả thế giới – một mình với người đàn bà đẹp bên cạnh. Lời nói không kịp để diễn tả nỗi phấn kích ông đang có về Cái Ý Nghĩ Lớn Lao của ông.

“Nhưng, ba à…”

“Và thêm một điều nữa, Nadia, đừng nói cho chị mày biết.”

Chuyện này thì không khó. Hai năm nay tôi không nói chuyện với chị tôi, từ ngày đưa đám mẹ chúng tôi.

“Nhưng, ba à…”

“Nadezhda, con phải hiểu rằng về nhiều phương diện, người đàn ông bị chi phối bởi những xung động khác nhau đối với phụ nữ.”

“Ba à, làm ơn đừng đem cái chủ nghĩa định đoạt sinh học ra nói với con.”

Nhưng mà, tại sao tôi phải lo lắng nhỉ? Cứ để cho ông già sáng mắt ra thì đã sao.

 

Có lẽ chuyện bắt đầu trước khi có cú điện thoại ấy. Có lẽ chuyện bắt đầu hai năm trước, ngay trong căn phòng mà bây giờ ông đang ngồi, nơi mẹ tôi nằm chờ chết trong lúc ông đi tới đi lui trong nhà với nỗi đau đớn cực độ.

Các cửa sổ đều mở, và gió phe phẩy qua những tấm màn vải bông vén lên nửa chừng mang mùi oải hương từ khoảnh vườn trước nhà. Có tiếng chim hót, tiếng người qua lại trên đường, đứa con gái nhà hàng xóm lẳng lơ với thằng bạn trai bên cổng. Bên trong căn phòng sạch sẽ, nhợt nhạt, mẹ tôi ngáp ngáp giờ này qua giờ khác trong khi sự sống tuột dần đi, và tôi đút từng muỗng morphine cho mẹ.

Đây là những đồ trang bị cao su của thần chết – những chiếc găng tay latex của y tá, tấm khăn trải giường không thấm nước, những chiếc dép có gót đệm xốp, một gói thuốc glycerine nhét hậu môn sáng lóe như những viên đạn màu vàng kim, cái tủ với nắp đậy đa năng và chân có chêm miếng cao su, bây giờ đầy  chất lỏng màu xanh lục.

“Mẹ còn nhớ…?” Tôi kể đi kể lại những câu chuyện thời thơ ấu của chúng tôi và của mẹ.

Mắt mẹ lóe lên trong tăm tối. Lúc tỉnh táo, đặt tay trong lòng bàn tay tôi, bà nói, “Tội nghiệp ba mày. Nhớ chăm sóc ông ấy.”

Đêm hôm ấy lúc bà mất, ba tôi ở bên cạnh bà. Tôi còn nhớ tiếng gào thống thiết của ông.

“Cả tôi nữa! Cả tôi nữa! Đem tôi đi!” Giọng ông đặc cứng, như bị siết cổ; chân tay ông cứng đờ, như thể đang lên cơn động kinh.

Buổi sáng sau khi người ta đem xác bà đi, ông ngồi ở phòng sau, nét mặt đầy ám chướng. Một lúc sau ông nói, “Con có biết không, Nadezhda, ngoài chứng minh toán học của Pythagore, cũng còn có chứng minh hình học nữa đó? Con thấy đẹp quá là đẹp phải không?”

Trên một trang giấy, ông vẽ những đường, những góc, nối với những biểu tượng nho nhỏ, và thì thầm với chúng lúc ông giải phương trình.

Tôi nghĩ ông lẩn thẩn mất rồi. Tội nghiệp Bố Già.

Những tuần lễ trước khi qua đời, Mẹ ngồi lưng dựa trên gối cao trên giường bệnh viện. Dây nhợ chằng chịt nối đến màn hình ghi nhận những nhịp đập tội nghiệp của trái tim bà, bà cằn nhằn vì trại bệnh lẫn lộn nam nữ, mà cái màn hớ hênh có che được chút riêng tư nào đâu, lại còn những âm thanh xô bồ của tiếng khò khè, tiếng ho, tiếng ngáy của mấy ông già. Bà co dúm lại dưới những ngón tay mập ú, vô hồn của người y tá đàn ông trẻ đến để dán sợi dây lên phía trên đôi vú nhăn nheo của bà, vô tình để hở ra dưới chiếc áo khoác bệnh viện. Bà chẳng là gì khác hơn một bà già bệnh hoạn. Đâu có ai cần biết bà nghĩ gì?

Từ giã cõi đời khó hơn mình tưởng, bà nói. Có vô số điều cần phải làm trước khi mình có thể yên ổn ra đi. Ba của con, ai là người sẽ lo cho ông ấy? Hai đứa con gái của ông ấy là không rồi – chúng nó thông minh, nhưng hơi một tí là cãi cọ. Rồi chúng nó sẽ sống thế nào đây? Chúng nó có tìm thấy hạnh phúc không? Những đứa đàn ông đẹp trai nhưng chẳng làm nên tích sự gì ấy có nuôi nổi chúng nó không? Và ba đứa cháu ngoại nữa – xinh đẹp mà chưa có chồng. Còn bao nhiêu thứ để sắp xếp, trong khi sức khỏe của bà cứ tàn lụi dần.

Mẹ viết di chúc trong bệnh viện, trong lúc chị tôi – Vera – và tôi đứng bên giường, bởi vì hai chị em tôi không ai tin ai. Chữ viết của bà quều quào, hai người y tá làm chứng. Cái người cả đời chả bao giờ ốm đau bây giờ suy sụp. Bà già nua và đau ốm, nhưng di sản của bà; tiền bà dành dụm, thì phập phồng sự sống trong ngân hàng.

Một điều mà bà chắc chắn – là không để cho ba tôi đồng xu nào hết.

“Tội nghiệp ông ấy, đầu óc để đâu đâu ấy. Toàn những dự tính điên cuồng, Tốt nhất là hai đứa chúng bay chia đôi.”

Bà nói bằng thứ ngôn ngữ của riêng bà – tiếng Ukraine pha lẫn với những chữ như handheldblendera, suspenderbeltu, greenfingerdski.

Khi biết chắc là bệnh viện không còn cách nào cứu vãn nữa, người ta cho bà xuất viện để bà ra đi ở nhà  theo giờ giấc của riêng bà. Chị tôi có mặt ở đó hầu như trọn tháng cuối cùng. Tôi đến thăm vào cuối tuần. Cũng vào khoảng tháng cuối, khi tôi không có mặt ở đó, chị tôi viết thêm điều khoản bổ túc vào di chúc chia số tiền thành ba phần đều nhau cho ba đứa cháu ngoại – con Anna nhà tôi và Alice với Alexandra nhà chị ấy – thay vì chia đều cho tôi và chị. Mẹ tôi ký tên có người hàng xóm làm chứng.

“Đừng lo,” tôi nói với mẹ trước khi bà mất, “mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Tụi con sẽ buồn, sẽ nhớ mẹ, nhưng rồi cũng yên ổn cả.”

Nhưng chúng tôi đâu có yên ổn.

Người ta an táng mẹ ở nghĩa trang trong làng, ở lô đất giáp ranh với khu đồng trống. Mộ của bà là ngôi mộ cuối trong hàng những ngôi mộ mới.

Ba đứa cháu gái – Alice, Alexandra, và Anna – cao ráo, tóc vàng , ném hoa hồng xuống huyệt, rồi tới những nắm đất. Ba tôi, co quắp vì chứng viêm khớp xương, da xám xịt, mắt nhìn trống rỗng, níu lấy cánh tay chồng tôi trong nỗi u uất cạn khô nước mắt. Hai đứa con gái, Vera và Nadezhda, Niềm Tin và Hy Vọng, chị tôi và tôi, chuẩn bị trận chiến trên tờ chúc thư của mẹ.

Khi đám khách đưa đám tang ghé nhà chúng tôi để giải lao với nước ngọt và nếm vị men samohonka của Ukraine, chị tôi và tôi nghênh nhau trong bếp. Chị mặc bộ đồ lụa đan hai mảnh màu đen mua lại từ tiệm đồ cũ nhỏ và kín đáo nào đó ở Kensington. Có những móc gài vàng kim trên giầy của chị, và chị đeo cái túi Gucci có móc vàng, và một sợi dây chuyền vàng thật mảnh vòng quanh cổ. Tôi mặc một bộ đen mua ở Oxfam. Chị nhìn tôi soi mói từ đầu đến chân. “Đúng thật, dáng vẻ nhà quê mà!”

Tôi bốn mươi bảy tuổi và là giảng viên đại học, nhưng cái giọng của chị tôi thu tôi nhỏ lại thành con bé  bốn tuổi hỉ mũi chưa sạch.

“Nhà quê thì đã sao. Mẹ cũng nhà quê vậy,” đứa bé bốn tuổi bẻ lại.

“Thì đấy,” Chị Hai nói. Chị mồi điếu thuốc. Khói uốn éo quyện lên cao thành những vòng xoắn điệu đà.

Chị cúi xuống nhét cái bật lửa vào túi Gucci của chị, và tôi trông thấy trên sợi dây chuyền vàng đeo quanh cổ chị có cái trái tim lồng ảnh nhỏ, đính phía trong ve áo. Nhìn nó có vẻ lỗi thời và kỳ cục trên trang phục hợp thời trang của chị, như thể chỗ của nó không phải ở đó. Tôi nhìn đăm đăm. Nước mắt trào ra khóe mi.

“Chị đeo cái trái tim lồng ảnh của Mẹ.”

Đó là kho tàng duy nhất của Mẹ từ Ukraine, nhỏ vừa đủ để giấu trong gấu áo. Đó là món quà ông ngoại tặng bà ngoại hồi đám cưới hai người. Bên trong cái trái tim lồng ảnh, hai bức hình mờ nhạt mỉm cười với nhau.

Chị nhìn tôi. “Mẹ cho tao.” (Tôi làm sao mà tin được điều đó. Mẹ biết tôi thích trái tim lồng ảnh ấy, khao khát nó hơn bất cứ thứ gì. Nhất định là chị đã lấy trộm. Không có cách giải thích nào khác.) “Bây giờ, chính xác là mày muốn lôi thôi cái gì về di chúc của Mẹ đây?”

“Em chỉ muốn mọi chuyện công bằng,” tôi làu bàu. “Có gì sai trái chứ?”

“Nadezhda à, mày mua đồ ở Oxfam là quá rồi, mày còn mua luôn ý tưởng từ cái tiệm đó nữa à?”

“Chị lấy trái tim lồng ảnh. Chị ép mẹ đổi di chúc. Chia tài sản đều cho ba đứa cháu ngoại thay vì cho hai đứa con gái. Như vậy là chị với con chị được gấp đôi. Tham lam gì quá vậy!”

“Thế à. Nadezhda. Tao thật là choáng váng khi biết mày nghĩ như vậy.” Cặp lông mày cắt tỉa lỹ lưỡng của Chị Hai nhướng lên.

“Cũng không choáng váng bằng lúc tôi khám phá ra,” Đứa bé hỉ mũi chưa sạch gằn giọng.

“Mày không có ở đó, đúng không, cô út? Mày chu du ở nơi khác lo mấy chuyện trời ơi đất hỡi của mày. Lo cứu vớt thế gian. Lo theo đuổi sự nghiệp. Để tao gánh hết mọi thứ. Từ xưa đến giờ mày vẫn làm như thế mà.”

“Chị tra tấn những ngày cuối đời của mẹ với chuyện ly dị của chị, với sự tàn nhẫn của chồng chị. Chị hút thuốc lá mịt mù ở đầu giường mẹ trong lúc mẹ nằm chờ chết.”

Chị Hai búng tàn từ đầu điếu thuốc và thở dài đầy kịch tính.

“Mày thấy chưa, vấn nạn của thế hệ chúng mày, Nadezhda, là tụi mày chỉ trượt trên bề mặt cuộc sống. Hòa bình. Tình Yêu. Kiểm soát nhân công. Toàn những thứ lý tưởng vô nghĩa. Tụi bay có thể duy trì một cách xa xỉ tinh thần vô trách nhiệm bởi vì tụi bay không bao giờ nhìn thấy mặt trái của đời sống.”

Tại sao cái giọng trưởng giả của chị tôi lại làm tôi giận điên lên như thế? Bởi vì tôi biết nó giả tạo. Tôi còn lạ gì với chiếc giường đơn hai chị em ngủ chung và nhà vệ sinh ở cuối sân với những mảnh vuông xé ra từ giấy báo để chùi. Chị ấy đâu có thể lừa tôi được. Nhưng tôi cũng có cái cách riêng của tôi để châm chọc chị.

“Ồ, thì ra cái mặt trái của đời sống làm chị khó chịu à? Sao chị không đi tư vấn tâm lý đi?” Tôi gợi ý một cách ma mãnh bằng cái giọng hãy-biết-nhạy-cảm chuyên nghiệp nhất của tôi, cái giọng hãy-xem-tôi-trưởng-thành-như-thế-nào của tôi, cái giọng tôi dùng để nói với ba tôi.

“Làm ơn đừng lên giọng chuyên-viên-xã-hội với tao, Nadezhda à.”

“Bà đi tâm lý trị liệu đi. Nắm bắt cái mặt trái đen tối ấy đi. Phanh phui nó ra trước khi nó ăn mòn hết con người bà.” (Tôi biết nói thế sẽ làm chị giận điên lên.)

“Tư vấn tâm lý. Trị liệu. Hãy cùng nói về vấn đề của chúng ta. Hãy ôm lấy nhau để cảm thấy dễ chịu hơn. Hãy giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Hãy đem hết tiền cho những đứa trẻ đang chết đói.” Chị cắn một cách hung tợn vào một cái bánh trái cây. Một quả ô-liu văng xuống nền nhà.

“Chị à, chị đang có tang mà lại mới ly dị nữa. Hèn chi chị thấy căng thẳng. Chị cần điều trị.”

“Ảo tưởng cả đấy thôi. Mặt trái con người khó khăn và ác độc và chỉ biết có họ thôi. Mày không tưởng tượng được là tao ghét bọn nhân viên xã hội đến mức nào.”

“Em biết. Mà này chị à, em có phải là nhân viên xã hội đâu.”

Ba tôi cũng phẫn nộ. Ông đổ lỗi cho các bác sĩ, cho chị tôi, cho người đàn ông cắt cỏ sau nhà là gây ra cái chết của mẹ tôi. Đôi khi ông tự trách chính ông. Ông đi vòng quanh lẩm bẩm, nếu đừng xảy ra chuyện này, nếu đừng xảy ra chuyện kia, thì vợ thân yêu của tôi vẫn còn sống. Cái gia đình lưu vong nhỏ bé của chúng tôi, từ biết bao lâu gắn bó với nhau nhờ tình yêu và món súp củ cải đỏ của mẹ, đã bắt đầu rã rệu.

Một mình trong căn nhà trống trải, ba tôi sống bằng đồ hộp và trải thức ăn trên giấy báo, như thể tự trừng phạt thì sẽ làm mẹ tôi sống lại. Ông không dọn đến ở với chúng tôi.

Thỉnh thoảng tôi ghé thăm. Tôi thích ngồi trong nghĩa trang nơi mẹ tôi an nghỉ.

Bia mộ ghi thế này:

LUDMILLA MAYEVSKA

SINH NĂM 1912 Ở UKRAINE

VỢ THÂN YÊU CỦA NIKOLAI

MẸ CỦA VERA VÀ NADEZHDA

BÀ NGOẠI CỦA ALICE, ALEXANDRA, VÀ ANNA

Người thợ làm bia mộ phải cố gắng lắm mới ép được từng ấy chữ lên tấm bia.

Một cây anh đào nở hoa và bên dưới là một băng ghế hướng về một vuông đất trồng cỏ, và một hàng giậu cây táo gai ngăn chia nó với một cánh đồng lúa mì lẫn vào những cánh đồng lúa mì, những ruộng khoai tây, những cánh đồng hoa vàng khác, hoài hoài đến tận chân trời. Mẹ tôi xuất thân từ vùng thảo nguyên, và bà cảm thấy an lòng với những chân trời mở rộng này. Lá cờ Ukraine có hai dải màu, xanh phía trên, vàng phía dưới – vàng cho ruộng bắp, xanh cho bầu trời. Khung cảnh phẳng lì, rộng thênh thang, không hình dạng này gợi bà nhớ đến quê nhà. Có điều là bầu trời hiếm khi biếc xanh. 

Tôi nhớ mẹ nhưng tôi cũng quen dần với nỗi buồn. Tôi còn một ông chồng, một đứa con gái và một đời sống ở một nơi khác.

Ba tôi lầm lũi trong căn nhà hai người đã sống với nhau. Một túp nhà kiểu mới, nhỏ bé và xấu xí, sân rải sỏi và một nhà để xe bằng bê tông bên hông. Khu vườn vây quanh ba phía căn nhà, ở đó mẹ tôi trồng hoa hồng, oải hương, tử đinh hương, hoa bồ câu, anh túc, hoa băng sê, hoa ông lão, hoa mõm sói, cây cỏ chét ba, đinh hương vàng, cỏ bạc hà, hoa lưu ly, hoa mẫu đơn, hoa phi yến, chi nghệ hương, hoa chuông, hoa hồng đá, hương thảo, diên vĩ, hoa bách hợp, và một dải tử đằng màu tím cắt tỉa từ một vườn bách thảo nào đó.

Có hai cây táo, hai cây lê, ba cây mận, một cây đào, và một cây mộc qua, với những quả màu vàng ngát hương đã được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi trong làng suốt hai mươi năm qua. Ở phía sau, bên ngoài vườn hoa và sân cỏ, là ba khoảnh đất mẹ trồng khoai tây, hành, đậu đũa, đậu răng ngựa, đậu Hòa Lan, bắp ngọt, bí ngô, cà rốt, tỏi, măng, sà lách, cải bó xôi, cải bắp, cải tí hon. Giữa những luống rau, cây thì là và rau mùi tây mọc hoang, không cần gieo hạt. Ở một bên, một giải đất trồng đủ loại dâu, hai loại cây lý chua đỏ và đen, và một cây đào có lưới vây quanh mà ba tôi đã làm để ngăn chặn lũ chim béo tốt, tham ăn. Tuy vậy một vài cây dâu cũng bò ra ngoài lưới bọc mọc lan ra tới ranh giới vườn hoa.

Có một nhà ương cây với những dây nho màu tím mọc sum suê bên trên những luống cà chua và ớt sai quả. Phía sau nhà ương cây là một bể nước, hai chòi nuôi cây, một đống cây ủ phân, và một ụ phân vốn là niềm mơ ước của dân làng. Đó là thứ phân bò dòn tan được ủ kỹ, món quà từ một người làm vườn Ukraine tặng. Mẹ tôi gọi đó là “sô-cô-la đen”. “Nào, bé bỏng của tôi,” bà thì thầm với những cây bí ngô. Chúng nuốt trửng chỗ phân bón và lớn nhanh như thổi.

Mỗi lần ba tôi ra vườn, ông lại thấy bóng dáng mẹ tôi, khom người trên những luống bí ngô, vói tay để buộc chùm đậu đũa, bóng mẹ lướt nhòe trên khung kính nhà ương cây. Đôi khi tiếng bà gọi ông từ phòng này qua phòng khác trong căn nhà trống trải. Và mỗi lần ông sực nhớ ra bà không còn ở đó, vết thương lại bung ra.

Cú điện thoại thứ nhì đến vài ngày sau cú thứ nhất.

“Nadezhda, con nghĩ một người đàn ông tám mươi tư tuổi còn có con được không?”

Thấy cái cách vào đề thẳng thừng của ông chưa? Chẳng nói loanh quanh. Chẳng phải “Khỏe không con? Mike và Anna thế nào rồi?” Chẳng lòng vòng chuyện thời tiết. Chẳng thứ lông bông nào có thể kiềm chế được ông khi ông đã bị cái Ý Nghĩ Vĩ Đại nắm cổ rồi.

“Thì… con cũng không chắc lắm…”

Tại sao ba tôi lại hỏi tôi chứ? Tôi làm sao biết được? Tôi không muốn biết. Tôi không muốn chuyện nhùng nhằng tình cảm này kéo tôi về cái thời hỉ mũi chưa sạch, cái thuở mà ba vẫn là người hùng của tôi và tôi vẫn còn nơm nớp lo sợ làm ba buồn lòng.

“Và nếu vậy, Nadezhda à,” ông huyên thuyên trước khi tôi kịp thu tóm lực lượng phòng thủ, “con nghĩ cái cơ hội đứa bé bị thiểu năng về tâm thầm sẽ như thế nào?”

“À, Pappa,” (ngừng để lấy hơi, cố giữ giọng cho vui tươi và đầy cảm thông) “khoa học đã chứng minh tỏ tường là người đàn bà càng lớn tuổi thì càng có nhiều cơ hội đứa con bị Down’s Syndrome. Chứng thiếu khả năng học hỏi – trước đây vẫn gọi là hội chứng Mông Cổ.”

“Hừm,” (Ông không thích nghe điều đó.) “Hừm. Nhưng có thể đó là chuyện may rủi mình phải chấp nhận thôi. Con thấy không, Ba nghĩ nếu cô ấy là mẹ của một công dân Anh Quốc, đồng thời là vợ của một công dân Anh Quốc, chắc chắn là họ sẽ không trục xuất cô ấy được…”

“Pappa à, con nghĩ không nên vội vã…”

“Bởi vì luật pháp của Anh Quốc là thứ hoàn hảo nhất thế giới. Đó vừa là số phận vừa là gánh nặng lịch sử, là điều mà mình có thể nói…”

Ông luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh, với cách phát âm kỳ cục và loạc choạc, nhưng nghe hiểu được hết. Anh ngữ của dân kỹ sư. Mẹ tôi thì nói chuyện với tôi bằng tiếng Ukraine, với cách phân tán vô giới hạn của sự mềm mỏng dịu dàng trong ngôn ngữ ấy. Tiếng mẹ đẻ mà.

“Pappa à, hãy ngừng lại và nghĩ một tí đã. Thực sự phải ba muốn điều đó không?”

“Hưm. Tao muốn cái gì?” (ông nói what I want thành vat I vant). “Dĩ nhiên làm ra một đứa bé như thế không phải là chuyện đơn giản nữa. Nhưng về mặt kỹ thuật vẫn có thể…”

Ý nghĩ rằng ba tôi ăn nằm với người đàn bà kia làm bao tử tôi quặn lên.

“Trở ngại là, máy bơm nước không còn hoạt động. Nhưng biết đâu với Valentina thì…”

Lòng vòng cái chuyện phòng the, ông vẽ vời đủ thứ, đủ kiểu, đủ phương pháp làm đầu óc tôi rối tung. Cái kiểu phải biết nhìn từ một góc độ khác, phải biết ứng dụng… đại khái như…

“Con nghĩ sao?”

“Pappa, con chẳng biết nghĩ sao.”

Tôi chỉ muốn ông đừng nói nữa.

“Đúng vậy, với Valentina thì vẫn có thể được…”

Giọng ông trở nên mơ màng. Ông đang nghĩ ông sẽ chăm sóc đứa bé – một thằng con trai, nhất định là con trai. Ông sẽ dạy nó cách chứng minh định lý Pythagore từ những định đề thứ nhất và cách thưởng ngoạn nghệ thuật Khuynh Hướng Kiến Tạo. Ông sẽ thảo luận về máy cày với nó. Ba tôi đã thất vọng khi có được hai đứa con thì cả hai lại là con gái. Trí thông minh thì kém cỏi, đã vậy còn không biết đưa đẩy và thiếu nữ tính, như nữ giới lẽ ra phải có, ngược lại, lại là những sinh vật nói năng the thé, cứng đầu cứng cổ, không biết kính trên nhường dưới. Đúng là nỗi bất hạnh cho một người đàn ông. Ông chưa bao giờ tìm cách che giấu sự thất vọng ấy.

“Pappa à, con nghĩ trước khi vội vã làm bất cứ chuyện gì, ba nên tham khảo luật pháp. Biết đâu nó lại không như ba nghĩ. Ba muốn con tham khảo một luật sư không?”

Tak, tak. (Được. Được.) Nên hỏi một luật sư ở Cambridge trước. Họ có đủ loại người ngoại quốc ở đó. Chắc họ phải biết chút gì về vấn đề di trú.”

Ông có thói quen phân loại những người mà ông tiếp xúc. Nhưng ông không có ý niệm gì về sự kỳ thị sắc tộc hết.

“Được rồi, Pappa. Con sẽ thử tìm một luật sư chuyên về di trú. Trong khi chờ đợi, đừng làm gì hết.”

Luật sư là một anh chàng trẻ tuổi hành nghề trong thành phố, anh ta rành công việc của mình. Anh ta viết:

Nếu ba cô muốn kết hôn, ông phải làm đơn với Sở Di Trú xin cho vợ ông ta ở lại. Muốn được chấp thuận, bà ấy phải chứng minh những thứ sau đây:

  1. Rằng mục đích chính của hôn nhân không phải để được vào hoặc được ở lại Anh Quốc.
  2. Rằng họ đã gặp nhau.
  3. Rằng họ dự tính sống với nhau thường xuyên như vợ chồng.
  4. Rằng họ có thể nuôi dưỡng chăm sóc nhau mà không cần trợ cấp xã hội.

Vấn đề chính là Sở Di Trú (hoặc tòa đại sứ nếu bà ấy nộp đơn sau khi rời khỏi Anh Quốc) sẽ không tin vì sự chênh lệch tuổi tác, và bởi vì hôn nhân xảy ra thời gian ngắn sau khi bà ta phải rời Anh Quốc, vì vậy họ sẽ cho rằng mục đích của hôn nhân đơn giản là để được nhập cư.

Tôi chuyển lá thư đến ba tôi.

Anh chàng luật sư còn bảo là cơ hội thành công sẽ tốt hơn nhiều nếu hôn nhân của họ tồn tại hơn năm năm, hoặc nếu như họ có con với nhau.

Điều này thì tôi giấu ba tôi.

 

bài đã đăng của Marina Lewycka

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)