[Trích từ tác phẩm The Great Railway Bazaar (xb. 1975) của Paul Theroux]
Chương 25
Chuyến xe lửa chở khách tuyến đường Huế – Đà Nẵng
Từ trên không, mặt nước xám lờ đờ của Biển Đông có vẻ lạnh như nước đá, có những ngôi mộ tròn của Phật tử trên khắp đầm lầy, và kinh đô Huế chìm nổi giữa những đống tuyết trôi giạt. Nhưng đó là cát ướt, chứ không phải tuyết, và những ngôi mộ tròn ấy là các hố bom. Huế có một vẻ ngoài kỳ lạ. Sài Gòn có rất nhiều dây kẽm gai trên các chướng ngại vật nhưng ít bị chiến tranh tàn phá; Biên Hoà có những căn nhà bị bom tan tành; Cần Thơ có chuyện phục kích và bệnh viện đầy người bị thương. Nhưng ở Huế tôi có thể thấy và ngửi mùi chiến tranh: phố xá lầy lội lún vết xe nhà binh và người ôm tay nải chạy dưới mưa, binh lính băng bó lết qua cơn gió mùa nhớp nháp trong thị trấn hoang tàn hoặc ngồi ngó lom lom qua nòng súng phía sau mấy chiếc xe chở quá tải. Cử động của con người có vẻ nhịp nhàng một cách đáng buồn. Các cuộn kẽm gai đặt đối xứng hai bên đường làm tắc nghẽn hầu hết phố xá, bao cát xếp nghiêng ngả quanh các căn nhà. Hôm sau, trên xe lửa, Cobra One (cùng Cobra Two và Dial đến đi chung) nói: “Xem kìa – nhà nào cũng có lỗ đạn!” Đúng vậy: ít nhà không bị thủng lỗ gớm ghiếc, và đa số bị hàng loạt đạn xé tung vách tường. Cả thị trấn mang màu nâu sậm của bạo lực, vết ô uế của các cuộc tấn công giữa vũng nước trương phềnh. Huế còn giữ vài dấu vết của dáng vẻ thời quân chủ (Việt, Pháp), nhưng nét thanh tao ấy chẳng khác gì lời thất hứa.
Trời rất lạnh trong các gian phòng ẩm thấp, giá buốt ẩm ướt từ bầu trời toả xuống và mưa phùn dai dẳng. Tôi đi tới đi lui, gồng mình chống lạnh, trong lúc diễn thuyết ở Đại học Huế – trong toà nhà kiểu thuộc địa, không chút dáng dấp hàn lâm, thật ra trước kia là cửa hàng đắt tiền có tên Morin Frères[1], mà các chủ đồn điền ngoại thành dùng làm nhà khách và kho tiếp liệu. Tôi diễn thuyết trong một phòng ngủ thời trước, và từ ban công lộng gió tôi có thể thấy khoảnh sân bỏ phế, hồ cá rạn nứt, thanh chớp cửa sổ tróc sơn ở các phòng khác.
Sau đó chúng tôi lái xe lên một gò trên khu mộ hoàng gia, bên sông Hương. Ông McTaggart, nhân viên USIS[2] ở địa phương, nói: “Chỗ đó là đất của VC.” Tóc trắng, ân cần, ông tự nấu ăn và đôi khi đạp xe ra đây tập nói tiếng Việt với lính gác trên gò. Bên kia sông, đất của Việt Cộng là một số đồi trơ trụi vì bị xịt thuốc rụng lá. Nhưng thỉnh thoảng vẫn có bắn nhau. Khi ấy một chiếc tàu của quân đội Việt Nam Cộng hoà sẽ bình bịch áp sát vào bờ phía địch quân rồi bắn suốt buổi chiều lên đồi, chẳng nhắm mục tiêu cụ thể nào, giống như pháo hạm Pháp trong Heart of Darkness[3] bắn bâng quơ – Conrad gọi là điên khùng – vào rừng rậm Phi châu. Một người Việt nói tôi phải đến vào mùa nóng. Khi ấy tôi có thể thuê ghe và một cô gái và đem thức ăn, rồi tôi có thể qua đêm trên dòng sông mát, làm tình và ăn.
Tôi hứa tôi sẽ đến. Chúng tôi đến các ngôi mộ gần đó. Các toà nhà ở Huế càng cũ càng được giữ gìn tốt: đám nhà tiền chế mái tôn bán nguyệt dựng hồi năm ngoái sập tan tành, nhưng căn nhà 40 năm của ông McTaggart nom tiều tụy nhưng tiện nghi, các mộ vua hàng trăm năm trong tình trạng rất tốt, dù được làm bằng vật liệu xài lại, theo phong tục Việt Nam (để nhấn mạnh đức khiêm tốn) – như gỗ và đá cũ, gốm sứ vỡ, và ngói rạn nứt. Mấy khu vườn rắc rối và cổng chạm trổ sơn hình rồng chầu trên vòm cong; và ở các phòng bên trong, lăng tẩm bụi bặm, các bà cụ khập khiễng từ món đồ cổ này qua món đồ cổ khác, thắp ngọn nến nhỏ cho chúng tôi xem cái đồng hồ Pháp (đã mất kim), những chân đèn pha lê, bàn thờ mạ vàng và mấy cái tủ khảm xà cừ, mấy cái quạt lông công xơ xác (“Bà ấy nói vua Pháp tặng”). Bàn tay các cụ run rẩy đưa ngọn lửa nến tới gần kho báu khô ran này, tôi sợ nó đốt rụi nơi ấy. Lúc chúng tôi ra về, họ thổi tắt hết nến và ở lại trong lăng mộ tối. Dân thành phố này thường xuyên chạy loạn, nhưng trong ấy các bà cụ – người hầu của vua từ thập niên 1920 và 30 – không bao giờ rời những ngôi mộ. Họ ăn ngủ trong khu lăng mộ hoàng gia.
Tối hôm ấy lạnh; chó sủa trong ngõ lầy lội, và tuy lạnh buốt nhưng phòng ngủ của tôi đầy muỗi rất khó chịu.
*
Sáng hôm sau ở nhà ga Huế một ông người Việt nhỏ bé mặc bộ vét vải chéo, đội mũ phớt, chạy tới nắm tay tôi. Ông nói: “Chào mừng ông đến Huế. Toa của ông đã sẵn sàng.” Ông là trưởng ga. Ông được báo trước về chuyến đi của tôi, và đã nối toa riêng của giám đốc vào đoàn xe chở khách đi Đà Nẵng. Vì Hoả xa Việt Nam bị chặt khúc, mỗi vùng có một toa giám đốc riêng đậu tránh bên hông. Ngành hoả xa nước nào cũng có một toa như thế, nhưng Hoả xa Việt Nam có sáu tuyến riêng, chăm chỉ vận hành độc lập. Như ở Sài Gòn, tôi ngại lên toa riêng, biết rằng tay mình sẽ run nếu viết điều gì khe khắt về những người này. Tôi cảm thấy vụng về trong khoang trống của mình, trên toa trống của mình, nhìn người Việt xếp hàng mua vé để lên các toa chật ních. Ông trưởng ga lôi tôi đi khỏi ô bán vé (“Không cần!”), nhưng tôi đã kịp liếc giá vé: 143 đồng (25 xu Mỹ) đi Đà Nẵng, có lẽ là chuyến đi 75 dặm rẻ nhất thế giới.
Thông dịch viên Dial, Cobra One và Two lên xe, vào cùng buồng với tôi. Chúng tôi ngồi im, nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Nhà ga vuông vắn quét vôi trắng, một dị bản của Alamo[4], lỗ chỗ những vết đạn làm bong các mảng vữa, để lộ gạch đỏ bên trong. Nhưng nhà ga được xây vững chãi như căn biệt thự có hốc cửa sổ nhô ra ngoài của McTaggart và cửa hàng Morin Frères – khác hẳn với lô đất bỏ phế và nền xi măng ngay ngoại ô Huế, nơi doanh trại đổ nát và vòng đai chướng ngại vật đứt gãy của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến chìm trong bùn. Hình như mọi khí cụ chiến tranh đều bị định giờ tự hủy vào ngày người Mỹ rút đi, để không còn sót lại dấu vết nào của cuộc phiêu lưu tàn bạo ấy. Trên sân ga, vài chiếc xe bọc thép lòi sườn rách tanh banh vì mìn. Mấy chiếc xe này là nhà của bọn trẻ con mặt buồn. Trong hầu hết các nước vùng nhiệt đới, như William Blake[5] mô tả, người lớn đứng ở mép bãi cỏ xanh náo nhiệt, xem bọn trẻ nô đùa. Ở Việt Nam bọn trẻ chơi một mình, còn người lớn hình như bị quét sạch; bạn tìm bậc cha mẹ giữa đám trẻ, tìm bóng dáng người lớn phía sau. Nhưng không thấy người lớn ở đó vì thế cảnh quan trở nên méo mó. Bà già đang cõng đứa bé, mặc cái váy dài lem luốc, tóc ướt sũng nước mưa, hoá ra là một đứa trẻ.
Dial hỏi: “Ông thấy cái bồn nước trong WC chưa?”
“Chưa.”
“Vặn vòi nước rồi đoán coi cái gì chảy ra?”
Tôi nói: “Rỉ sét.”
Cobra Two nói: “Chẳng có gì chảy ra cả.”
Dial nói: “Nước!”
Cobra One thốt lên: “Đấy. Paul, ghi xuống. Vòi nước có nước. Nước có chảy. Anh nghĩ sao?”
Nhưng đó là bồn nước duy nhất trong đoàn xe.
Ông trưởng ga nói tuyến đường Đà Nẵng đã mở được bốn tháng, sau 5 năm ngưng hoạt động. Cho tới nay chưa bị gián đoạn lần nào. Không ai giải thích nổi tại sao nó tái hoạt động trùng hợp với lúc Mỹ rút. Giả thiết của tôi là bây giờ quân xa của Mỹ không còn miệt mài ngược xuôi trên con lộ duy nhất giữa Huế và Đà Nẵng, Quốc lộ 1, có cái tên thấm thía là “Con Lộ Buồn”[6]. Lưu thông trên đường nhựa giảm bớt vì quá tốn kém, người Việt phải tìm cách hợp lý hơn, đó là mở đường xe lửa. Chiến tranh không giảm, nhưng ít quân xa hơn, ít cầu kỳ hơn. Tiền và lính nước ngoài đã làm rắc rối vấn đề, nhưng bây giờ người Việt bỏ cách đối đầu kiểu đại công ty Mỹ để trở về với thượng tầng kiến trúc thời thuộc địa, thông tin chậm hơn, về với ruộng đồng, ở trong căn nhà cũ, và dùng một hệ thống vận chuyển dựa trên đường xe lửa. Mô hình chiến tranh kiểu Mỹ bị gạt bỏ – các căn cứ hoả lực hoang phế, doanh trại trơ xương, đường nhựa hư hỏng, phô bày cái thực tế có thể gặp trên chiếc xe lửa chở hành khách lách cách tới Đà Nẵng, với hàng hoá là rau quả trồng ở Huế.
Những cây cầu trên tuyến đường này kể chuyện chiến tranh. Cầu mới xây, có rỉ sét mới dưới rầm cầu. Nằm cách xa cầu mới là mấy cây cầu gãy, tựa như đứng yên ra dấu, ở ngay tại chỗ bị đặt chất nổ làm cong queo rơi xuống khe núi. Một số dòng sông có cầu gãy, những đống thép đen chồng chất dị hợm ngang mặt nước. Không phải cầu nào cũng mới gãy. Trong hẻm núi có hai ba cây cầu gãy, tôi nghĩ cây cầu gãy xưa nhất là tàn tích của vụ Nhật ném bom, những chiếc cầu gãy khác là dấu tích phá hoại của chính sách khủng bố hồi thập niên 50 và 60, mỗi cuộc chiến để lại cảnh đổ nát riêng. Nó xấu xí một cách đáng nhớ, như những tác phẩm điêu khắc kim loại quái dị. Người Việt phơi đồ giặt trên nó.
Trên các dòng sông – các cây cầu này – lính tráng là dấu tích rõ nhất. Đây là các điểm chiến lược: một cây cầu bị bom có thể làm tuyến đường ngưng hoạt động cả năm. Vì thế hai bên cầu, ngay trên vỉa đá, có ụ bao cát tùm hụp, công sự và hầm hố, lính gác phần lớn còn rất trẻ, giơ súng carbin vẫy đoàn xe lửa. Chỗ trú của họ giăng biểu ngữ đỏ và vàng. Dial dịch cho tôi. Một khẩu hiệu điển hình là HÂN HOAN CHÀO MỪNG HOÀ BÌNH NHƯNG KHÔNG NGỦ QUÊN TRONG CHIẾN TRANH. Những người lính mặc áo lót đứng quanh, đung đưa trên võng, một số bơi dưới sông hay đang giặt giũ. Một số nhìn xe lửa, súng vác vai, mặc bộ quân phục quá khổ – như nói bóng gió về sự gán ghép bất cân xứng, luôn nhắc cho tôi nhớ rằng những người này – những thiếu niên này – đã được người Mỹ to xác cấp quần áo và vũ khí. Khi Mỹ rút đi, cuộc chiến có vẻ quá lớn, một kích thước quá khổ, thật vậy, như cái áo có ống tay dài đến tận đốt ngón tay người lính và chiếc mũ sắt đội sụp qua mắt họ.
Cobra One nói: “VC ở phía đó.” Ông chỉ các dải đất nhô lên cao dần thành dãy đồi xa xa. “Anh có thể nói VC kiểm soát 80 phần trăm nông thôn, nhưng cũng chẳng ăn thua gì vì tụi nó chỉ có 10 phần trăm dân số.”
Dial nói: “Hồi trước tôi có tới đó.” Tôi cứ quên rằng Dial đã là lính thủy quân lục chiến. “Tụi tôi hành quân đã được ba tuần. Chúa ơi, lạnh! Nhưng thỉnh thoảng gặp may tới được làng. Dân làng thấy tụi tôi tới nên bỏ chạy, thế là tụi tôi vào lán của họ – ngủ trên giường họ. Tôi nhớ hai lần – của đáng tội – tụi tôi phải đốt hết bàn ghế của họ để sưởi. Tụi tôi chẳng tìm đâu được củi.”
Rặng núi cao dần, trông giống bậc cấp rạp hát lộ thiên nhìn ra Biển Đông. Quái dị, trơ trụi, xanh lơ, các đỉnh núi chìm trong sương mù, vương vấn khói của đám cháy đốt rừng làm rẫy. Chúng tôi đang trên dải đất hẹp sát biển, xuôi nam dọc bờ biển loang lổ vẫn do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, giữa núi và biển. Thời tiết đã đổi, hay có lẽ rốt cuộc chúng tôi đã lết ra khỏi trận mưa phùn khôn ngớt ở Huế. Bây giờ nắng ấm: người Việt leo lên mui toa ngồi đung đưa chân trên mái hiên. Chúng tôi gần bãi biển tới mức nghe sóng vỗ rì rầm, và trong cái vịnh nhỏ cong cong phía trước làm đoàn xe như gập đôi lại, ghe xuồng đánh cá cưỡi sóng bạc đầu vào bờ, nơi có các ông đội mũ như cái dù đang tung tròn chiếc lưới bắt tôm bùn.
Cobra Two nói: “Chúa ơi, đất nước này đẹp quá.” Bà chụp ảnh ngoài cửa sổ, nhưng không bức ảnh nào có thể ghi lại được sự phức tạp của vẻ đẹp ấy: nắng rọi sáng một dấu bom trong rừng phía kia, bên cạnh đó khói toả đầy thung lũng; một cột mưa từ cụm mây lang bạt đổ nghiêng xuống một sườn núi khác, và màu xanh lam nhường chỗ cho màu lá cây sẫm, tới màu lá mạ trên ruộng mạ phẳng lì, tới dải cát, rồi biến thành đại dương xanh biếc. Không gian bao la và quang cảnh bát ngát buộc phải ngắm từng phần, như đứa trẻ xem bức bích hoạ.
Tôi nói: “Tôi thật không ngờ.” Trong tất cả mọi nơi đường xe lửa đã đưa tôi đến từ khi rời Luân Đôn, đây là nơi đẹp nhất.
Cobra Two nói: “Chẳng ai biết cả. Không có ai ở Mỹ biết là nơi này đẹp như vậy. Nhìn kìa – Chúa ơi, nhìn kìa!”
Chúng tôi đang đi trên mép một vịnh màu xanh lục lấp lánh nắng. Quá khỏi mảng biển nhấp nhô màu ngọc bích là tới vách đá nhô ra và cảnh một thung lũng lớn tới nỗi chứa nắng, khói, mưa và mây – cùng một lúc – các vỉ màu độc lập. Tôi không ngờ được xem vẻ đẹp này; nó làm tôi cảm thấy ngạc nhiên và nhỏ bé giống như khi nhìn sự trống vắng ở nông thôn Ấn Độ. Ai đã nói tới một điều đơn giản là những chỗ cao ở Việt Nam là những nơi hùng vĩ không thể tưởng? Chúng ta khó có thể trách anh lính Mỹ bị bắt quân dịch vì sợ hãi nên không nhận ra vẻ tráng lệ này, nhưng lẽ ra ngay từ đầu chúng ta nên biết rằng người Pháp có thể đã không biến nó thành thuộc địa, và người Mỹ có thể cũng chẳng đánh nhau lâu như thế, nếu vẻ đẹp chín muồi ấy không mời gọi con mắt chiếm đoạt.[7]
Cobra One nói: “Chỗ đó là Thung lũng A Sao[8],” trước đó ông hay bắt chước Walter Brennan[9] rất giống. Đỉnh núi vươn lên sương mù; bên dưới, trong khói và nắng, các hẻm núi sâu tối để lộ các thác nước. Cobra One lắc đầu: “Nhiều người giỏi đã chết ở đó.”
Sững sờ vì cảnh quan, tôi đi dọc đoàn xe, gặp một ông mù đang sờ soạng ra cửa – tôi có thể nghe phổi ông phì phò như ống bể; các bà cụ nhăn nheo răng đen mặc bà ba đen ôm chặt những thúng cói đựng hành ta; và lính – một anh mặt xám như tro trên xe lăn, một anh chống nạng, những người khác mới được băng bó ở tay và đầu, tất cả trong bộ quân phục Mỹ, đúng là gợi ý giễu cợt. Một nhân viên đi qua các toa để kiểm tra căn cước của nam giới, tìm kẻ trốn quân dịch. Anh nhân viên này vướng vào sợi dây ông mù buộc vào eo đứa bé dắt ông. Trên xe có nhiều lính mang vũ khí, nhưng có vẻ họ không phải là lính hộ tống đoàn xe. Bảo vệ xe lửa là lính đóng ở các ụ súng hai bên cầu, và có lẽ vì thế giật mìn nổ tung đường ray là chuyện dễ. Ban đêm chôn mìn dưới đường ray; khi xe lửa tới chỗ đặt mìn, một người nấp nhấn ngòi nổ – người đó có thể là Việt Cộng hay một kẻ đặt bom do chủ xe vận tải ở Đà Nẵng thuê.
Hai lần trên chuyến xe này, lúc đậu trên đường tránh ở các ga nhỏ, các bà già lại đưa trẻ con cho tôi; chúng giống những đứa trẻ da tai tái, tóc màu nhạt tôi đã gặp ở Cần Thơ và Biên Hoà. Nhưng mấy đứa này lớn hơn, có lẽ bốn hay năm tuổi, và thật lạ khi nghe những đứa bé nom giống Mỹ nói tiếng Việt. Lạ hơn nữa là thấy nông dân Việt nhỏ bé trong cảnh bao la của cây cối, hẻm núi và vách đá màu ngọc bích – từ bờ mây lan xuống – chỗ vừa đẹp vừa che giấu kẻ thù của họ. Từ trên xe lửa tôi có thể quay nhìn rặng núi và gần như quên tên nước này, nhưng sự thật thì gần gũi và tàn nhẫn hơn: người Việt đã bị thiệt hại rồi bị bỏ rơi, bị bắn vì bị tưởng lầm là chúng ta khi họ mặc y phục của chúng ta; như thể đúng lúc họ tin rằng chúng ta gắn bó với họ thì chúng ta bỏ chạy. Thật ra không đơn giản như vậy, nhưng giai đoạn đáng buồn này phải mô tả như thế mới gần với sự thật hơn ý kiến vội vàng của những người Mỹ đang bị dằn vặt phải chọn nhanh các giả thuyết[10], coi chiến tranh như một chuỗi hành động tàn bạo, hay một loạt sai lầm hoàn toàn mang tính chính trị, hay một phần của chủ nghĩa anh hùng nghĩa hiệp bị cản trở. Bi kịch là chúng ta đã đến, và ngay từ đầu đã không có ý định ở lại: Đà Nẵng là bằng chứng cho điều ấy.
Xe lửa đi dưới đèo Hải Vân hùng vĩ (“Đèo Mây”), ranh giới tự nhiên phía bắc Đà Nẵng, giống như bức tường La Mã ngăn cách ngoại nhân. Nếu Việt Cộng qua được ranh giới ấy thì đường tới Đà Nẵng mở rộng cho họ, và họ đã đóng quân trên các sườn dốc xa xa, chờ đợi. Như mọi dải đất khác giữa Huế và Đà Nẵng, các rặng núi và thung lũng ngoạn mục nhất đã và vẫn là bãi chiến trường kinh hoàng nhất. Qua khỏi đèo Hải Vân chúng tôi vào một đường hầm dài. Tôi đã đi qua hết các toa và đang đứng trên ban công phía trước của đầu máy dầu cặn, dưới những ngọn đèn pha sáng rực. Phía trước, một con dơi lớn thả mình khỏi trần hầm rồi vụng về đập cánh chập chờn, lượn sát vách, cố bay trước đầu máy kêu rầm rập. Miệng đường hầm hiện ra, con dơi sà xuống sát đường ray, rồi bốc cao lên – bây giờ chậm hơn – nó càng lúc càng gần đầu máy. Nó như món đồ chơi bằng gỗ và giấy, dây cót đã bắt đầu giãn, và cuối cùng cách mặt tôi khoảng ba thước, con thú nâu hốt hoảng vỗ đôi cánh xương xẩu của nó. Nó mệt, sà xuống vài tấc, rồi trong ánh sáng cuối đường hầm – ánh sáng nó không thể thấy – nó xụi cánh, cố dấn tới, và lập tức rơi dưới bánh xe.
“Con Lộ Buồn” phía trên chúng tôi lúc chúng tôi chạy qua mũi đất trụi cây tới cầu Nam Ô[11] năm nhịp, sơn màu tối, quấn những vòng kẽm gai to rỉ sét để chống đặc công dưới nước. Khu phế liệu này bên ngoài Đà Nẵng, một khu gớm ghiếc có các căn cứ tiếp liệu đang được quân đội Việt Nam Cộng hoà và dân ở lậu chiếm giữ. Chỗ trú – lán và chái nhà – toàn bộ bằng vật liệu chiến tranh, bao cát, tấm nhựa, tôn đóng dấu U.S. ARMY, và bao thực phẩm in tên viết tắt của các tổ chức từ thiện. Đà Nẵng bị đẩy sát tới biển, tất cả đất đai quanh nó bị nhổ sạch cây. Nếu có nơi nào trông như bị đầu độc, thì đó là Đà Nẵng.
Lùng sục và cướp bóc là kỹ năng mà chiến tranh đã bắt người Việt hấp thụ. Chúng tôi xuống Ga Đà Nẵng. Sau khi ăn trưa chúng tôi cùng với một viên chức Mỹ lái về phía nam thành phố, nơi trước kia có một số trại lớn của lính Mỹ. Hồi đó có cả ngàn lính Mỹ; bây giờ đã đi hết. Nhưng trại lính đầy cứng dân tị nạn. Vì không được bảo trì, các trại đều tiều tụy và nom như bị pháo kích. Quần áo giặt bay trên cột cờ; cửa sổ vỡ hoặc đóng ván; bếp lửa nấu ăn trên mặt đường. Dân tị nạn kém may mắn hơn phải sống trong mấy chiếc xe vận tải mất bánh, và mùi cống thật kinh khủng – cách 200 mét đã có thể ngửi thấy mùi doanh trại.
Ông viên chức Mỹ nói: “Họ chờ ở cổng và bên hàng rào từ lúc người Mỹ bắt đầu đóng gói. Như châu chấu hay cái gì tôi chẳng biết. Ngay khi người lính cuối cùng rút đi, họ lao vào, cướp phá các kho, và trưng dụng nhà ở.”
Dân tị nạn cướp lột doanh trại bằng sự tháo vát; viên chức chính quyền Việt Nam cướp lột bệnh viện bằng quyền thế. Tôi liên tục nghe những chuyện ở Đà Nẵng (và lại nghe ở hải cảng Nha Trang phía nam) về ngày người Mỹ rút đi, các bệnh viện bị vét sạch – thuốc, bình dưỡng khí, chăn, giường, thiết bị y tế, bất cứ cái gì có thể đem đi. Tàu Trung quốc bỏ neo ngoài khơi chờ nhận đồ ăn cắp để đem bán lại ở Hồng Kông. Nhưng trời có mắt: một thương gia Thụy Sĩ kể cho tôi là một số tiếp liệu y khoa chôm chỉa này tìm được đường từ Hồng Kông về Hà Nội. Không ai biết gì thêm về các viên chức chính quyền làm giàu nhờ việc này. Một số chuyện ăn cắp nghe có vẻ phóng đại; nhưng tôi tin có ăn cắp trong các bệnh viện trước kia của Mỹ, vì không viên chức Mỹ nào có thể cho tôi biết có bệnh viện nào còn nhận bệnh nhân, mà chuyện đó người Mỹ phải biết.
Trên đường xuôi nam vài dặm, các trại lính bị cướp phá chật ních người Việt. Cảnh thích ứng vội vàng của họ thể hiện qua các ô cửa đục xuyên vách trại, và những bộ lều trại bị kéo sập để làm mười cái chòi ọp ẹp. Bản thân trại lính là tạm bợ – làm toàn bằng ván ép nứt nẻ vì ẩm thấp, những tấm kim loại bong tróc, thanh hàng rào xệ xuống – vì thế chỗ trú sơ sài này sẽ không tồn tại lâu. Nếu tội nghiệp cho lính Mỹ thoái chí đã sống trong các trại kinh hoàng đó, thì càng thấy đáng thương hơn cho người thừa hưởng thứ đồ đồng nát này.
Quán rượu trống trơn và đa số hình như phá sản, với bảng quảng cáo bết trứng ruồi ghi COLD BEER, MUSIC, GIRLS, nhưng đến chiều tối tôi mới thấy cảnh hoang phế thật của Đà Nẵng. Chúng tôi lái ra bãi biển. Cách sóng biển ầm ầm 50 bước có căn nhà trệt còn khá mới. Căn nhà ấm cúng trên bờ biển, xây cho một ông tướng Mỹ mới dọn ra khỏi trại dạo trước. Ông tướng này là ai? Không ai biết tên ông. Bây giờ ai là chủ căn nhà ven biển này? Cũng chẳng ai biết, nhưng Cobra One đoán mò: “Chắc là của một ông bự Việt Nam nào đó.” Một anh lính người Việt cầm súng carbine ngơ ngáo trên hàng hiên, cái bàn phía sau anh chất đủ thứ chai: vodka, whiskey, soda gừng, nước ngọt, bình nước cam, một xô đá lạnh. Tiếng cười chán nản và hơi ngà say từ trong nhà vọng ra.
Cobra One nói: “Tôi nghĩ có người đã dọn vào. Mình vào xem.”
Chúng tôi đi qua anh lính gác, lên các bậc thềm. Cửa trước mở, trong phòng khách hai người Mỹ ngồi trên ghế nệm dài đang mơn trớn hai cô gái Việt ngực nở. Cảnh lố bịch đối xứng – hai gã đều mập, hai cô đều cười, và hai cái ghế nệm dài đặt cạnh nhau. Câu chuyện bi thảm của Conrad kể lại chủ nghĩa thực dân, “Outpost of Progress”, nếu được làm thành hài kịch thì sẽ giống cảnh này.
Một trong hai gã nói: “Ê, mình có khách!” Gã đấm bức tường phía sau đầu, rồi ngồi lên đốt lại điếu xì gà.
Trong lúc chúng tôi tự giới thiệu, cánh cửa bên bức tường mà gã hút xì gà đã đấm mở ra, một anh da đen lực lưỡng vừa vội vàng đi ra vừa kéo quần lên. Rồi thấy một cô người Việt bé như dơi trong phòng. Gã đen nói: “Hê” rồi bước ra cửa trước.
Cobra One nói: “Bọn tôi không chủ ý phá bữa picnic của các anh,” nhưng ông không ra vẻ là sẽ rời nơi đây. Ông khoanh tay nhìn; ông cao lớn và có cái nhìn chằm chằm gay gắt.
Gã cầm xì gà lăn khỏi ghế và nói: “Các ông chẳng phá cái gì đâu.”
Viên chức Mỹ chở chúng tôi đến đây nói: “Đây là ông chỉ huy an ninh.” Ông giới thiệu gã mập cầm xì gà.
Như để nhận là đúng, gã mập lại châm lửa đốt điếu xì gà. Rồi gã nói: “Ừ, tôi là sếp ma xó vùng này. Các ông mới tới hả?” Gã say vừa đủ để biết rõ mình say và cố giấu. Gã bước ra ngoài, xa khỏi mấy cái nệm xô lệch, mấy cái gạt tàn thuốc lá đầy, mấy cô gái ưỡn ẹo.
Khi chúng tôi kể là chúng tôi đi từ Huế vào Đà Nẵng bằng xe lửa, gã CIA nói: “Các ông đi bằng cái gì? Các ông tới nơi là may! Hai tuần trước VC giật nó nổ tung.”
Cobra One nói: “Ông trưởng ga ở Huế đâu có nói với tụi tôi như vậy.”
Gã CIA nói: “Tay trưởng ga ở Huế đâu có biết là nó đang gãi đít hay đang sờ đầu. Cho các ông biết tụi nó giật nổ tung. Chết 12 người, tôi không biết bị thương bao nhiêu.”
“Giật mìn?”
“Ừ. Giật mìn. Kinh hoàng.”
Gã CIA sếp an ninh toàn tỉnh đang nói láo; nhưng lúc đó tôi không có dữ kiện để phản bác câu chuyện của gã. Ông trưởng ga Huế nói nhiều tháng nay không có vụ giật mìn nào, và các nhân viên hoả xa ở Đà Nẵng xác minh điều ấy. Nhưng gã CIA nôn nóng muốn tỏ cho chúng tôi rằng gã biết rõ chuyện xảy ra trong vùng này, và càng nôn nóng khi cô gái tới đeo cổ gã. Gã mập kia trong nhà, đang hoảng hốt thì thầm với một trong các cô, còn gã đen xa trên hàng hiên đang đu lên thanh sắt buộc giữa hai cây dừa. Gã CIA nói: “Mấy ông phải nhớ một điều là dân làng không ủng hộ cả VC lẫn quân chính phủ. Thấy không, vì vậy mọi chuyện yên tĩnh.”
Cô gái Việt bẹo má gã và réo bạn cô trên bãi biển đang xem gã đen lắc sợi dây xích nặng quanh cổ. Gã trong nhà đi ra, tự rót rượu. Gã uống một cách bồn chồn, nhìn gã CIA khoác lác.
Gã CIA nói: “Tình thế tức cười. Tựa như ông nói làng này sạch, làng kia toàn Charley[12], nhưng ông phải hiểu một điều là đa số dân không tham chiến. Tôi bất chấp các ông đọc gì trên báo – tụi ký giả đó như cứt. Tôi cho các ông biết là yên.”
“Còn mìn thì sao?”
“Ừ, mìn. Các ông nên tránh xe lửa; tôi chỉ nói được đến thế.”
Gã cầm ly rượu nói: “Ban đêm thì khác.”
Gã CIA nói: “Ôi dào, nè, tới tối thì vùng quê coi như đổi chủ.”
Cobra One nói: “Tôi nghĩ mình nên đi về.”
Gã CIA nói: “Vội gì vậy? Cứ ở lại đây.” Gã nói với tôi: “Ông là nhà văn. Tôi cũng viết văn – ý tôi nói là tôi có viết chút đỉnh. Thỉnh thoảng tôi gõ mấy bài. Boy’s Life[13] – tôi viết khá nhiều cho Boy’s Life, và à…”
Các cô hét lên bằng tiếng Việt và cười khúc khích làm gã đãng trí.
“… à, ông nói ông định đi đâu? Ngũ Hành Sơn à?” Gã nhìn đồng hồ đeo tay. Năm giờ rưỡi. “Giờ này ông nên tránh xa chỗ đó. Charley có thể đang ở đó. Tôi không biết. Tôi không muốn chịu trách nhiệm.”
Chúng tôi về, và khi ra đến xe tôi nhìn lại căn nhà. Gã CIA vẫy chúng tôi với điếu xì gà; hình như gã không biết cô gái Việt vẫn đang đeo cổ gã. Bạn gã đứng trên hàng hiên với gã, cái ly giấy đầy rượu và nước gừng lúng túng trên tay. Gã đen đã trở lại cái thanh sắt trên cao: gã đang đu lên; các cô đang đếm. Anh lính gác ngồi ôm khẩu súng trường. Xa xa là biển. Gã CIA gọi lớn, nhưng thủy triều lên và sóng ầm ĩ át tiếng gã. Dân tị nạn ở Đà Nẵng chiếm doanh trại; ba gã này chiếm căn nhà ven biển của ông tướng. Về một mặt nào đó họ là tất cả tiền đặt cuộc còn lại của người Mỹ trong chiến tranh: đồi trụy, sợ hãi say sưa, và đơn giản. Đối với họ chiến tranh đã kết thúc: họ chỉ tìm vui, phá phách một chút.
Cách đó bốn dặm về hướng nam, gần Ngũ Hành Sơn, xe chúng tôi kẹt sau chiếc xe bò chậm rãi. Trong lúc chờ, một đứa bé Việt Nam độ mười tuổi chạy tới hét vào cửa.
Cobra One hỏi: “Nó nói gì thế?”
Dial nói: “Đồ đụ má.”
“Mình dông.”
Tối hôm đó tôi gặp Trung tá Tuấn[14], bút danh của ông là Duy Lam. Ông là một trong mười nhà văn Việt Nam kể cho tôi mức độ khắt khe trong chính sách kiểm duyệt của chế độ Thiệu – không chỉ kiểm duyệt về chính trị, vì A Streetcar Named Desire[15] cũng bị cấm. Tiểu thuyết gia Việt Nam sợ sách của họ bị kiểm duyệt nên đã chọn con đường an toàn hơn, là dịch các tác phẩm vô hại: các hiệu sách ở Saigon đầy bản dịch tiếng Việt các cuốn Jane Eyre, Jonathan Livingston Seagull, và các tác phẩm của Washington Irving và Dorothy Parker. Trung tá Tuấn nói ông thích viết bằng tiếng Việt, dù ông cũng có thể viết dễ dàng bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh.
Ông nói: “Tiếng Việt là ngôn ngữ rất đẹp, nhưng rất khó dịch. Thí dụ, đàn ông có nhiều cách để gọi vợ mình. Ông ta có thể gọi ‘cô’ – nhưng như vậy bị coi là thô lỗ. Hay ông ta có thể gọi vợ là ‘em’, và vợ ông gọi ông là ‘anh’. Đẹp nhất là khi đàn ông gọi vợ là ‘mình’ – ‘mình khoẻ chứ?’ Và còn nhiều cách khác nữa. Ông ta có thể gọi vợ là ‘mẹ’, và vợ ông gọi ông là ‘bố’…”
Cobra One nói: “’Mẹ, bố’, ủa, Mỹ-rặt cũng nói kiểu đó mà!”[16]
Trước khi Trung tá Tuấn ra về, tôi hỏi Việt Nam nói chung nghĩ gì về người Mỹ sau quá nhiều xung đột, xâu xé, chết chóc, sau bao năm chiếm đóng.
Trung tá Tuấn nghĩ một hồi lâu trước khi trả lời, và khi nói ông cẩn thận chọn từng chữ. Ông nói: “Chúng tôi nghĩ người Mỹ,” rồi ngừng. “Chúng tôi nghĩ họ rất kỷ luật … và họ đã làm nhiều sai lầm trong chiến tranh. Dĩ nhiên chúng tôi nghĩ họ hào phóng. Nhưng chúng tôi cũng tin rằng họ không có văn hoá – không một chút nào, chúng tôi không thấy có chút văn hoá nào. Tôi không nói cho tôi: tôi đã đọc Faulkner và nhiều tác giả Mỹ khác. Tôi đang nói như một người trung bình – như phần lớn dân Việt. Họ nghĩ như thế.”
Tôi bay từ Đà Nẵng vào Nha Trang để đi xe lửa tới Tháp Chàm, nhưng hôm tôi đến thì một toán đặc công tấn công kho xăng Nhà Bè tại ngoại ô Sài Gòn[17], và 50 phần trăm nhiên liệu ở Việt Nam bị mất sạch trong một buổi sáng. Nhiên liệu phân phối hạn chế, tôi hủy chuyến đi. Đi như thế là lãng phí không cần thiết, vì người ta phải chở tôi ngược 100 dặm về bằng xe hơi. Tôi lấy xe đạp đi quanh thị trấn có những ngôi biệt thự bỏ hoang, rồi ăn lươn trong một nhà hàng sát biển. Hôm sau tôi mất mấy tiếng ở phi trường Nha Trang chờ máy bay vào Sài Gòn; cuối cùng một chiếc đến, chiếc C-123 đầy Kleenex, Kotex, đậu, giấy vệ sinh, nước bưởi, một thùng lớn đựng gạo Cal-Rose thượng hảo hạng chỉ ghé tạm trước khi chở đi nơi khác (thật lạ, vì Nha Trang là vùng trồng lúa), và chiếc xe Dodge 1967 của một người Mỹ ở đây.
Chuyến bay vào Sài Gòn gặp bão làm tôi sợ mất vía. Tôi bị buộc vào thành bụng của con cá voi nhồi sóng này, và ba anh phi công người Tàu không làm tôi yên dạ. Tôi hồi phục đủ để thuyết trình hai lần nữa mà tôi nhớ là không khác gì lắm với điều Auden đã tả trong “On the Circuit” là[18]
Lời bình phẩm ngu xuẩn
Mặt ai đó mê hồn
Sau đó tôi dông, chờ trong phi trường Tân Sơn Nhứt để qua Nhật. Vào lúc thuận tiện hơn tôi sẽ đi xe lửa tới Hà Nội, đổi xe lên Bắc Kinh, rồi đi ngang Thẩm Dương và Seoul tới Pusan để lên chiếc thuyền nối với một trong các tuyến đường tốc hành Kyushu của Nhật. Hoặc tôi có thể đi thẳng từ Bắc Kinh tới Moscow qua ngả Ulan Bator bên Mông Cổ, rồi về nhà. Đường xe lửa thông thương từ ga đầu mối Hà Nội tới Ga Liverpool ở Luân Đôn. Có lẽ vào một ngày nào đó trong tương lai…[19]
[1] Tác giả ghi là “Morin Brothers”.
[2] United States Information Service, còn gọi là U.S. Information Agency, USIA (1953-1999), cơ quan quảng bá cho chính sách và lợi ích của Mỹ trên thế giới.
[3] Truyện đăng ba kỳ trên tạp chí Blackwood năm 1899 của Joseph Conrad, người Anh gốc Ba Lan.
[4] Cơ sở truyền giáo, nơi xảy ra trận đánh ác liệt trong lịch sử bang Texas năm 1836.
[5] William Blake (1757-1827), người Anh, nhà thơ, họa sĩ, và chủ nhà in.
[6] “Street without Joy,” nguyên thủy là tên do người Pháp đặt “La Rue Sans Joie.”
[7] “… we should have known all along that the French would not have colonized it, nor would the Americans have fought so long, if such ripeness did not invite the eye to take it.” Một cách nói cay đắng bằng auxiliary verbs.
[8] Nơi diễn ra trận đánh kéo dài hai ngày 9 và 10 tháng 3/1966, cuối cùng quân cộng sản tràn ngập căn cứ A Sao của lực lượng đặc biệt Mỹ.
[9] Walter Brennan (1894-1974), tài tử Mỹ, từng đoạt ba giải Oscar, có lập trường chống cộng kịch liệt.
[10] “the urgent opinions of anguished Americans who, stropping Occam’s Razor, classified the war as a string of astrocities…” Occam’s Razor là cách giải quyết vấn đề, được gán cho William xứ Occam (khoảng 1287-1347), tu sĩ người Anh dòng Francisco. Ông cho rằng trong tất cả các giả thuyết khác nhau, ta nên chọn giả thuyết nào ít giả định nhất.
[11] “Nam Ho Bridge”: Cầu bắc qua sông Cu Đê, đổ ra cửa biển Nam Ô, phía nam đèo Hải Vân chừng 5 km.
[12] Tiếng lóng chỉ Việt Cộng, bắt nguồn từ cách đánh vần chữ “VC” là “Victor-Charley”.
[13] Tờ tạp chí của Hội Nam Hướng đạo Mỹ.
[14] “Colonel Tuan”: Đúng ra vào năm 1975 nhà văn Duy Lam (tên thật Nguyễn Kim Tuấn) còn là trung tá.
[15] Vở kịch của Tennessee Williams (1911-1983), người Mỹ, viết năm 1947, được chuyển thành phim, opera, ballet, và diễn trên TV, thường bị cấm vì đề cập tới tình dục.
[16] “’Mother, Father,’” said Cobra One. “Why, Mister and Mrs. Front-Porch America say that!”
[17] Ngày 3/12/1973.
[18] Wystan Hugh (W.H.) Auden (1907-1973), nhà thơ người Anh, nhập quốc tịch Mỹ năm 1946. Bài thơ “On the Circuit” đăng trên tạp chí The New Yorker năm 1964, kể lại những vui, buồn, phấn khởi và nản lòng trong chuyến đi diễn thuyết vòng quanh nước Mỹ của ông. Hai câu thơ trên, “A truly asinine remark / A soul-bewitching face” được trích ra từ một đoạn trong bài thơ, mà nghĩa toàn phần là “Vì tôi (nhà thơ Auden) đã ghé qua nhiều nơi, trong một thời gian rút ngắn, nên trừ phi có ai trong cuộc hành trình phát biểu một ý tưởng gì quá ngu xuẩn, hoặc tôi có duyên gặp ai đó có khuôn mặt đẹp hớp hồn, tôi không thể nhớ hết là mình đã ở đâu vào lúc nào.”
[19] Chú thích của tác giả: “Bây giờ – tháng 4/1975 – hầu hết các thị trấn ở Việt Nam mà tôi đã đi xe lửa ngang qua đều bị nổ tung, tất cả bị chiếm hết, và nhiều người ở các nơi ấy bị giết. Những người còn sống thì tương lai u ám, và chiếc xe lửa nhỏ giữa Huế và Đà Nẵng không còn chạy nữa.”
bài đã đăng của Paul Theroux
- Ghost Train – Chương 12: Chuyến xe lửa đêm đi Mumbai; Chuyến tốc hành “Siêu Nhanh” - 17.12.2021
- Ghost Train to the Eastern Star – On the Tracks of the Great Railway Bazaar – Chương 11: Chuyến xe lửa đêm đi Jaipur - 03.12.2021
- Ghost Train to the Eastern Star – On the Tracks of the Great Railway Bazaar – Chương 10: Chuyến xe lửa đêm đi Jodhpur, Chuyến Mandore Tốc hành - 02.12.2021
- Ghost Train to the Eastern Star – On the Tracks of the Great Railway Bazaar- Chương 9: Chuyến xe lửa tốc hành Shan-E-Punjab đi Delhi - 01.12.2021
- paul theroux: chuyến xe lửa ban ngày đi hà nội (2003) - 29.08.2019
- Paul Theroux: Chuyến xe lửa đêm đi Huế (2003) - 27.08.2019
- Paul Theroux: Chuyến xe đò tốc hành Mekong Express (2003) - 22.08.2019
- Paul Theroux: Chuyến xe lửa Sàigòn-Biên Hòa (1973) - 16.08.2019
- Cơn Ác Mộng và Sự Phản Kháng - 31.03.2011