Loạt tranh mới của hoạ sĩ Trịnh Cung đã vượt qua giai đoạn hội hoạ thơ mộng lãng mạn của các trào lưu nghệ thuật thế kỷ 20 để đi sang một vùng đất mới. Vùng đất của hiện thực xã hội, của những vấn đề hôm nay, vì đề tài của loạt tranh này là con người trong một trật tự thế giới đang chuyển đổi: vấn đề di dân trong thời đại toàn cầu hoá.
Nằm trong chủ đề Câu Chuyện Một Di Dân Mới ở Cali, loạt tranh này mang tính truyện, kể câu chuyện về một người di dân có thể gọi là điển hình, đến từ một đất nước chưa phát triển thuộc thế giới thứ ba, người di dân này là da màu- không phải loại di dân da trắng đến từ Bắc Âu được tổng thống Trump ưa chuộng. Di dân này ở khu Bolsa, nơi có nhiều người lao động nghèo, người vô gia cư đẩy xe chở mùng mền quần áo, người cầm bảng Homeless xin tiền, người đi thu lượm lon về tái chế, những người mới chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ. Những người này đi mua sắm ở Goodwill.
Cái Mền Mua ở Goodwill là bức nhiều người thích. Nó nói lên tình gia đình của mọi nhóm di dân nói chung, thường là thương yêu, hỗ trợ, khắng khít với nhau vì họ đã trải qua sống chết có nhau. Gia đình ba người (trong tranh) đứng trên bãi biển, sau lưng họ là một đại dương mênh mông mà họ đã vượt qua được. Có thể cảm thấy sự ấm áp toả ra từ ba thân thể chụm lại. Nhưng tôi còn thích bức này vì lý do khác: Việt Nam giờ đã đầy những cửa hàng bán đồ hiệu Michael Kors, Calvin Klein, Chanel, Louis Vuitton,… mỗi món giá từ trăm đến ngàn đô. Nhưng Việt Nam không có Goodwill. Chỉ khi đặt chân đến vùng đất mới này họ mới tìm thấy Goodwill. Tôi nghĩ rằng đây là lý do khiến Trịnh Cung viết chữ Goodwill (Thiện Ý- Lòng Tốt) hai lần lên tấm mền, trên nền Thái Bình Dương, mà phía bờ bên kia là nước Việt.
Nhưng hai bức mà tôi thích nhất là hai bức tranh tự hoạ, khoả thân của Trịnh Cung.
Bức đầu tiên Tôi Đến Đây, Trần Truồng gợi liên tưởng đến một bức tương tự của Lucian Freud, trong đó Freud cũng khoả thân vẽ, một tay cầm bảng màu, tay kia cầm cọ giơ cao như đang phóng màu lên tranh. So với bức của Trịnh Cung, bức của Freud mạnh bạo hơn, cả động tác lẫn cách khắc hoạ cơ thể mang vẻ gắng sức. Nó động. Bức của Trịnh Cung tĩnh. Người hoạ sĩ cầm cọ và bảng màu nhưng trong tư thế nghỉ, suy tưởng, gần như càng lúc càng hoà hợp vào không gian là mây, nước, cát, cây cỏ, khung cảnh bao la khó định hình chung quanh. Vì vậy bức của Trịnh Cung gần với ảnh khoả thân tự chụp của Laura Aguilar, nhiếp ảnh gia Mỹ gốc Mexico. Bà có thân thể to lớn, đồ sộ, rất thô. Bà tự chụp khoả thân giữa thiên nhiên, cạnh vũng nước, trên đất bùn, giữa rừng, trên mỏm núi… trong những tư thế như tượng hay những tảng đá bất ngờ trồi lên. Ảnh tự chụp của bà là một cách ghi khắc thân thể vào phong cảnh và không gian chung quanh. Phản chiếu của thân thể bên vũng nước hay khối lưng rộng như phiến đá trên nền sỏi cát đã trở nên rất thẩm mỹ khi hoà nhập với thiên nhiên quanh bà.
Những ai quen nhìn ảnh khoả thân phụ nữ tiêu chuẩn người mẫu sẽ bị dị ứng khi xem ảnh Laura Aguilar. Hành động của bà khi đưa ra công chúng những phần cơ thể riêng tư, theo nhiều người là khó coi, nhằm mục đích chống lại cách nhìn áp chế của xã hội lên thân thể phụ nữ. Laura Aguilar muốn khẳng định rằng thân thể của bà vượt khỏi những bó buộc khắt khe dành cho phái nữ: phụ nữ phải gầy, phải trẻ, phải đẹp, phải hấp dẫn. Trong việc tự do thể hiện, bà đã tạo cái nhìn bình đẳng cho mọi cơ thể. Đây là một sự giải phóng bản thân và cùng lúc thay đổi cách nhìn về ảnh khoả thân nghệ thuật.
Thật ra chủ đề của tranh ảnh khoả thân không phải là khoả thân. Người nghệ sĩ dùng thân thể họ như một công cụ để nói lên những thứ khác. Phần lớn để thể hiện quan điểm, tâm trạng, hay chính kiến.
Trịnh Cung cũng thế. Chủ đề tranh khoả thân của Trịnh Cung không phải là thân thể và các bộ phận trên thân thể của ông. Sẽ là điều đáng tiếc nếu có người bị “khựng” lại nơi những bộ phận riêng tư trần trụi và không nhìn thấu đến nội dung tác phẩm. Điều mà Trịnh Cung muốn nói, muốn kể, muốn làm, là vẽ sự trần truồng của một người di dân, vẽ cảm giác của việc không có một mảnh vải trên thân thể. Trịnh Cung vẽ sự can đảm của người di dân mới, đi vào đất nước Hoa Kỳ, ví như sự can đảm của việc trần truồng đi giữa đám đông, chịu đựng những ánh mắt xét đoán, dè bỉu, chế giễu,.. để bắt đầu làm lại từ đầu, từ con số không. Trịnh Cung vẽ cảm giác của chính ông trong giai đoạn chân ướt chân ráo. Dáng đứng gần như thẫn thờ, có nét chập chững của một đứa trẻ, có vẻ phân vân giữa toan tính và lưỡng lự. Trịnh Cung vẽ cái nhìn về bản thân, soi vào nội tâm. Trịnh Cung vẽ phần thật nhất của mình, không che đậy, không tô điểm, không lấp liếm, không vay mượn.
Bức tranh thứ hai Hoang Vu Phía Trước, Thuốc Đàng Sau cho thấy sự già nua của thân thể, sự lão hoá, thuốc men, bệnh tật…nhưng tất cả đều bị đẩy ra phía sau. Còn hoạ sĩ vẽ tương lai trước mặt, là một chân trời còn bỏ hoang, cò nhiều tầng lớp khí và chất chưa định hình, và dường như trên đầu là một vầng mặt trời đen. Trịnh Cung vẽ cách con người di dân đối mặt với số mệnh: chắp tay sau lưng, bình thản, tự tại, sẵn sàng đi tới, đương đầu với thử thách.
Những gì Trịnh Cung vẽ trong loạt tranh hiện thực đơn sắc đã định nghĩa hiện hữu của ông, như một chủ thể đang khẳng định căn cước di dân da màu của mình.
Trong cuốn The Souls of Black Folk, W.E.B Dubois nhận định rằng lịch sử nô lệ đã khiến người Mỹ da đen luôn mang ý thức lưỡng cực ‘double consciousness’, khiến họ luôn nhìn chính mình và tự phán xét mình qua lăng kính của người khác. Họ chấp nhận một cách nhìn, một giá trị nào khác gắn lên họ, trong một xã hội không cho phép họ có một cái nhìn đúng về bản thân mình. Họ luôn nhận biết họ là gì trong mắt người da trắng. Và cái nhìn người chủ da trắng sẽ xác định thế nào là căn cước nô lệ da đen. Tuy Dubois nói từ kinh nghiệm của người da đen, tình trạng ý thức lưỡng cực cũng đã xảy ra cho những nhóm di dân da màu khác, đứng ở vị trí ngoại vi, trong một trật tự xã hội mà người da trắng ở vị trí tâm điểm và tượng trưng cho những giá trị theo quy chuẩn.
Trịnh Cung từ khước việc bị nhìn, bị áp đặt bất cứ cách nhìn nào lên chính ông. Bằng cách kể lại câu chuyện của mình, Trịnh Cung tự chọn một cách nhìn và định nghĩa về mình.
Một bên là giấc mơ Mỹ, nhà và xe hơi, nghề nghiệp lương cao, bác sĩ luật sư tổ hợp trong cộng đồng Việt thịnh vượng. Một bên là vô gia cư, đi xe đạp, tái chế lon nước, sống vỉa hè, ăn xin. Trịnh Cung chọn gì? – “Tôi Đến Đây, Trần Truồng” nhưng tôi không đến tay không, tôi mang theo tài năng thiên bẩm của tôi, nghệ thuật của tôi, sự thật của tôi.
Người nghệ sĩ nào nói lên sự thật về chính bản thân, người đó mới có thể nói sự thật về thế giới.
Không phải ngẫu nhiên mà Trịnh Cung chọn hình thức thể hiện là hiện thực đơn sắc. Chúng ta vẫn dùng khái niệm trắng đen để ngụ ý về sự thật và phản nghĩa của sự thật. Loạt tranh này, ngoài tính truyện, còn mang tính tư liệu của giấy (trắng) và mực (đen). Như nhiếp ảnh thời sự hay báo chí, đây là công trình ghi chép, để giữ lại, để lưu trữ. Hiện thực đơn sắc, qua việc chuyển biên độ ánh sáng để tạo hiệu ứng sáng-tối còn gợi liên tưởng đến ký ức. Dưới ánh sáng của ký ức, sẽ có những chi tiết đậm nhạt, những khoảng tối, những vùng mù mờ. Sẽ có những thứ sẽ phai dần, bên cạnh đó là những vết sẹo không thể xoá mờ khỏi ký ức. Đó là câu chuyện của một di dân. Của mọi di dân. Câu chuyện của việc hình thành tập thể loài người.
Tác động của loạt tranh này là gì?
Về mặt lịch sử, câu chuyện này quan trọng, vì nó là tư liệu, là hồ sơ, là ký ức của tập thể. Nếu mai này chúng ta có một viện bảo tàng về lịch sử Người Việt Di Dân thì loạt tranh này phải có mặt trong bộ sưu tập thường trực.
Về mặt nghệ thuật, loạt tranh này mở ra những đối thoại mới, giữa người Việt với nhau trong cộng đồng, giữa các cộng đồng di dân, giữa ngoại vi và dòng chính. Riêng với tôi, sau khi ở triển lãm này bước ra phố Bolsa, tôi nhìn thấy Bolsa khác hơn. Bolsa không chỉ là hàng quán hay đường phố. không chỉ là chợ hay văn phòng, lẩu ốc hay tiệm phở…
Bolsa bây giờ là phòng triển lãm mở, không vách, ngay trong đời sống. Mỗi người trên phố Bolsa là một câu chuyện, một tác phẩm nghệ thuật.
Trịnh Cung đã mang nhân vật trên đường phố vào loạt tranh. Chúng ta, bằng cảm thức nghệ thuật, mở cửa cho những nhân vật trong tranh bước trở ra đường phố.
Chúng ta cũng theo họ bước ra. Đúng như tinh thần chuyên đề nghệ thuật đang thực hiện trên Da Màu, Chúng ta là Art.
Tranh ảnh khỏa thân lột trần nhân tính của người xem nhiều hơn là phơi bày thân thể của người mẫu.
Với sự trải nghiệm nhân sinh và sức lao động nghệ thuật dài hơi, Trịnh Cung đã đi xa và bay đến cùng quĩ đạo sáng tạo để quay về khởi điểm của các họa sĩ chân chính: Thực Tại – như thi hào Yeats từng nói:
The rhetorician deceives his neighbours,
The sentimentalist himself; while art
Is but a vision of reality.
(Nhà hùng biện lường gạt bọn láng giềng, Kẻ ướt át tình cảm lừa dối chính mình, trong khi nghệ thuật chẳng qua là một lóe chớp của thực tại.)
Bài nhận định của Đặng Thơ Thơ đã làm xuất sắc công việc của phê bình là giúp người xem tranh nhìn ngắm tỏ tường hơn (John Berger). Chị đã so sánh mỹ học Trịnh Cung với Lucian Freud, Laura Aguilar. Giới sành diệu có thể liên tưởng đến Vermeer, La Tour, Van Gogh, Courbet, Rouault, Francis Bacon…- các danh họa đã chụp bắt diện mạo Thực Tại từ các góc độ thân xác đến vô vàn sinh hoạt thường ngày của thứ dân.
Tôi chú ý đến cái nháy mắt trào lộng trong các tranh Bolsa, chất humour gần với Bruegel Jr. và Toulouse-Lautrec. Có thể đặt tên ZEN REALISM cho bút pháp đơn sắc độc đáo của Trịnh Cung – một đóng góp lý thú vào các dòng nghệ thuật của đầu thế kỷ 21 này.
C.P.
Đặng Thơ Thơ đưa ra một khái niệm khá lý thú: vào và ra. Phải bước vào thì mới có cơ hội bước ra. Nhân vật bước vào, nằm đó, tưởng như đã xong. Không. Theo chân người, nó lại bước ra. Bước vào thì không có gì, nhưng bước ra, nó đeo theo. Người nghệ sĩ mang vào, người thưởng ngoạn mang ra. Trịnh Cung mang vào. Đặng Thơ Thơ mang ra. Bolsa vào, Bolsa ra.Không vào thì không ra. Vào, cũ; ra, mới. Vào thì giống, ra thì khác. Vào thì quen, ra thì lạ. Vào là chiêm nghiệm, ra là nghệ thuật. Vào là trần truồng, ra là khăn áo. Vào mà ra tay không ấy là vào mà không biết vào. Vào mà ra bận bịu, ấy là vào mà biết vào. Vào thì giống, ra thì khác.
Hãy vào, ngắm và hãy ra, thấy. Hãy vào, để ra. Đó là điều tôi rút ra từ tiểu luận ngắn này.
Trần Doãn Nho
Không lên tiếng thay cho Bolsa được, không là thị dân xứ đó, nhưng qua cái được thấy hôm nào trong căn phòng đa-chức-năng (sống, vẽ và tiếp bạn) của anh Trịnh Cung, một buổi tối đèn vàng thân mật, tới bây giờ đây tranh hôm ấy đã là trên tường gallery triển lãm, tôi chúc mừng anh Trịnh Cung và nói lời đồng ý với Đặng Thơ Thơ rằng một mai khi có một bảo tàng viện di dân cho Bolsa, đây là những bức tranh có một chỗ đứng riêng, đường hoàng của nó.
Những bức tranh kích tấc life-size làm như phác họa không thêm bớt, minh bạch trần trụi, nghiêm chỉnh đen-xám-trắng, mang chút lãnh đạm, và trong khoảng cách tường thuật có như phê bình, ẩn giấu thoáng cười lạnh, nghệ thuật khô lạnh (của loạt tranh này), không thể không thấy con người đứng đi mặc nhiên can đảm, dám làm dám nói, vượt biên giới, bỏ bản trạch, gột sạch dư thừa, đi vào cốt lõi, chấp nhận cái bây giờ, yêu quí nó, chỗ đứng khắc kỷ mà thiết tha, bìa phố chợ địa cầu, hậu của hậu-hiện-đại,… của Trịnh Cung.
Bài viết của Đặng Thơ Thơ có tinh chất của một giám tuyển chân tình, một curator đào xới tới nơi chốn chỗ nào là ý nghĩa tác phẩm cần được soi rọi trong bối cảnh di dân và thế giới hôm nay. Một nhìn ngắm tri kỷ.
Đây là một bài phê bình hội họa sâu sắc, tỉ mỉ, và gần gũi. Bài viết cho người đọc thấy sự liên kết mật thiết giữa tiểu sử nghệ sĩ, hội họa, và đời sống, giữa riêng tư và quần chúng. Đồng thời, kiến thức sâu rộng của Đặng Thơ Thơ về hội họa và văn chương di dân cũng giúp người xem tranh họa sĩ Trịnh Cung có một cái nhìn bao quát hơn, về những điều ông muốn diễn tả, cùng sự tham dự và vai trò cần thiết của Trịnh Cung như một nghệ sĩ trong truyền thống hội họa Hợp Chủng Quốc, của kinh nghiệm diaspora, và như thế cũng nằm trong kinh nghiệm hoàn cầu của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, là thời đại đầy xáo động, tạo ra những kẻ vô gia cư, bị bật rễ ra khỏi xứ sở, và do đó chất vấn mọi giá trị và áp chế cố hữu của xã hội.
Sự so sánh của Đặng Thơ Thơ giữa khái niệm khỏa thân của Trịnh Cung và của Lucian Freud, Laura Aguilar, rất thú vị và phong phú, sắc bén, vì những tư tưởng của tác giả cho người xem được biết thêm những khuynh hướng nghệ thuật về điều thường bị coi là taboo, đảo lại khái niệm kinh điển và truyền thống về “cái đẹp,” “sự thanh nhã.”