Trang chính » Bàn Tròn: Nghệ Thuật & Chính Trị, Biên Khảo, Dịch Thuật, Nhận Định, Quan Điểm, Sang Việt ngữ Email bài này

"Cuốn Tiểu Thuyết Hàng Đầu về Chiến Tranh Việt Nam Không Phải Từ Ngòi Bút Mỹ"

♦ Chuyển ngữ: 1 bình luận ♦ 12.05.2017

 

Năm 1967, Lê Lý Haslip, lúc bấy giờ tên là Phùng Thị Lê Lý, là một thiếu nữ sinh sống và làm việc ở Đà Nẵng. Sau khi bị hãm hiếp và thoát chết sau một trận chiến ở quê, cô đã di tản về Đà Nẵng để tránh sự khủng bố của cả hai phe Cộng Sản và phe chống Cộng. Cô lấy một người chồng Mỹ năm 1972, sau đó di cư sang Hoa Kỳ. Vào năm 1989 cô xuất bản cuốn tự truyện đầy sức thuyết phục thuật lại câu chuyện của một người đứng giữa hai lằn đạn, “Khi Trời Đất Đổi Ngôi/When Heaven & Earth Changed Places”. Cho đến ngày nay, năm 2017, đây có lẽ là cuốn sách duy nhất viết bằng tiếng Anh về tâm trạng và kinh nghiệm của một người dân làng Việt Nam sống giữa hai lằn đạn. Trong đời sống và tác phẩm, bà Hayslip là biểu hiện cho định nghĩa bao quát của tôi về người Việt Nam, một sự nhận dạng bao gồm người Việt Nam trong nước hay đã phân tán ra hải ngoại, những người viết văn bằng tiếng Việt hay bằng ngôn ngữ khác, ở đây là tiếng Anh.

Tôi tình cờ đọc cuốn sách của bà khi còn là một sinh viên Berkeley vào những năm đầu thập niên 1990s. Cuốn sách làm tôi xúc động sâu xa, không phải chỉ vì nó là một hồi ức lôi cuốn, mà nó còn là một trong số ít sách viết bằng tiếng Anh của một người viết Việt Nam. (Phải nói rõ là bà có nhà văn Jay Wurts viết chung). Là một người Việt Nam, tỵ nạn đến Hoa Kỳ, chỉ vì một cuộc chiến Mỹ xảy ra ngay trên quê hương tôi, tôi đã đi tìm kiếm lịch sử của chính cá nhân mình, nhưng đã không thấy được nhiều tài liệu bằng tiếng Anh, qua nguyên tác hay qua bản dịch. Đa số, nói đúng ra thì những trước tác viết về cuộc chiến Việt Nam tràn ngập thị trường đều từ những ngòi viết Mỹ, và lẽ đương nhiên, đều viết về người Mỹ.

Thật ra thì cũng có một số trường hợp ngoại lệ. Trần Văn Đĩnh là một nhà ngoại giao từ miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa. Ông cư ngụ tại Hoa Kỳ và có viết hai cuốn tiểu thuyết liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, “Trên Sông Không Khách /No Passenger on the River” (1965) và “Rồng Xanh, Hổ Trắng / Blue Dragon, White Tiger” (1983). Là một đứa trẻ hiểu biết sớm và đọc tất cả những cuốn sách tìm được về cuộc chiến, tôi bắt gặp “Rồng Xanh, Hổ Trắng” trong một thư viện công cộng ở San Jose, tiểu bang California, nơi tôi lớn lên, và đã băn khoăn nhiều về điểm quái lạ này. Ngay từ lúc ấy tôi đã biết rằng rất hiếm thấy người viết Việt Nam nào ở Hoa Kỳ đề cập đến cuộc chiến này, và cũng rất hiếm khi nghe đến tiếng nói của người Việt trong dòng chính văn đoàn Mỹ.

Đắm chìm vào những cuốn truyện này, từ những cảm xúc và hồi ức của cộng đồng người Việt tỵ nạn nơi tôi lớn lên, tôi quyết tâm sẽ kể lại một số chuyện, vì tôi biết rằng dân chúng Mỹ không biết nhiều về chúng. Chỉ có một số nhỏ người Mỹ tin rằng việc học hỏi từ những tiếng nói và kinh nghiệm Việt Nam là khẩn cấp và cần thiết, nếu không thì người Mỹ không thể nào đạt được sự hiểu biết toàn thể về cuộc chiến Việt Nam. Cái thiếu hiểu biết của người Mỹ về lịch sử, văn hóa và chính trị Việt Nam, đã kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến, vào một quốc gia mà họ không lĩnh hội được. Cái mô thức thiếu chiều sâu này, có thể nói là vẫn tiếp tục đến ngày hôm nay, người Mỹ vẫn tiếp tục thiếu ý thức đến vấn đề Việt Nam, và họ vẫn không chịu tìm hiểu về vấn đề Trung Đông. Văn chương do đó đóng một vai trò quan trọng trong việc cải hóa sự thiếu nhận thức này.

Trở lại với Trần Văn Đĩnh, tôi tự hỏi ông có cảm thấy cô đơn vì là nhà văn Việt độc nhất tại Hoa Kỳ trong thời điểm đó hay không? Bây giờ chúng ta không thiếu văn sĩ người Mỹ gốc Việt viết bằng tiếng Anh, không kể đến những bản dịch văn chương Việt sang Anh Ngữ. Thế nhưng, vẫn không nhiều người biết đến những tác phẩm văn chương này. Đối với người Mỹ và cả thế giới, “Việt Nam” chỉ có nghĩa là “Cuộc Chiến Việt Nam”, và Cuộc Chiến Việt Nam là cuộc chiến Mỹ, với văn sĩ Mỹ, viết tiểu thuyết về binh sĩ Mỹ. Tuy kinh nghiệm của họ có quan trọng, đó không hẳn là biểu tượng chính xác về Cuộc Chiến Việt Nam, nói chi là nước Việt Nam.

Như nhà văn nữ Lê Thị Diễm Thúy và nhiều người khác đã nói và viết, rất nhiều lần, Việt Nam là một quốc gia, không phải chỉ là một cuộc chiến tranh. Ta chỉ cần đọc tập truyện ngắn “Tướng Về Hưu” của nhà văn lớn Nguyễn Huy Thiệp là ta sẽ hiểu thấu. Những truyện ông viết vạch rõ cuộc sống phức tạp sau chiến tranh tại một nước Việt Nam vỡ mộng, cố sức tái tạo và điều hợp cái đạo đức giả và sự thất bại của người Việt Nam, của chính quyền Việt Nam, với cái tài ăn nói thuyết phục của đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời chiến. Và cùng lúc đó, cuộc chiến đã đẽo, gọt nắn thế hệ đi sau, như Lê Thị Diễm Thúy khui ra trong “Tên Găng Tơ Ta Cần Tìm Kiếm/The Gangster We Are All Looking For”.

Câu truyện đầy ý tình này kể về cuộc sống của một thiếu nữ Việt Nam tỵ nạn ở San Diego, cả gia đình cô đều bị ám ảnh, từ vết thương tinh thần của cha cô, một cựu quân nhân, và từ cái chết của anh cô trong chuyến đi tìm tự do. Tương tự như những tác phẩm Việt hay Việt-Mỹ về cuộc chiến, cuốn tiểu thuyết của cô cho thấy chiến tranh không chỉ ảnh hưởng đến người đàn ông, hay người cầm súng. Không có gì đặc biệt khi cuộc chiến Việt Nam giết nhiều thường dân hơn binh lính, và gây nhiều chấn thương cho hàng triệu người dân thường, những người đột nhiên biến thành người tỵ nạn, hơn cả những binh sĩ Mỹ chưa trực tiếp tham gia một trận đánh nào. Văn chương Việt-Mỹ vì đó buộc người đọc phải chấp nhận là với cái định nghĩa hẹp hòi rằng chiến tranh chỉ liên quan chủ chốt đến quân đội, binh lính; thì cái định nghĩa này không chính xác.

Lần này qua lần khác, văn chương Việt Mỹ đã cho thấy ảnh hưởng đau thương của chiến tranh đến người dân thường và người tỵ nạn (thí dụ như ‘Cá Rồng/Dragonfish’ của Trần Vũ về xã hội đen, hay ‘Mình Không Nên Gặp Nhau/We Should Never Meet’ của Aimee Phan về những đứa bé mồ côi Việt và lai Mỹ, hay ‘Sen và Bão/The Lotus and The Storm’ của Lan Cao tạo đường dây nối từ cuộc chiến Việt Nam đến cuộc chiến Iraq, hay ‘Tro Đốt Nơi Nào/Where The Ashes Are’ của Nguyễn Quý Đức, viết về chuyện cha ông, một cựu tỉnh trưởng miền Nam Việt Nam, bị giam cầm); về sự bóp méo tàn khốc đời sống người Việt Nam sau chiến tranh (như hồi ức vủa Andrew X. Phạm về chuyến đi phượt bằng mô tô ‘Cá Trê & Mạn Đà La/Catfish and Mandala’, như cái nhìn châm biếm thô nhám về tệ nạn tham nhũng ở Saigon ‘Yêu Như Ghét/Love Like Hate’ của Đinh Linh, đến ‘Nước Mắt Mỗi Lần Sinh/She Weeps Each Time You’re Born’ của Quan Barry kể về một nhà tiên tri có tài cảm nhận được sự đớn đau của những người sống sót); về hiện hữu đầy ám ảnh đến thế hệ người Việt thứ nhì tại hải ngoại (như cuốn hồi ký có hình ảnh minh họa đầy sức thuyết phục ‘Mình Chỉ Làm Được Vậy/The Best We Could Do’ của Thi Bùi, như cuốn tiểu thuyết ‘Mái Lá, Mái Tôn/Grass Roof, Tin Roof’ của Đào Strom về một phụ nữ Việt Nam tỵ nạn, lấy chồng Mỹ, và tác động của cuộc hôn nhân này đến những người con; như hồi ký lớn lên ở vùng Trung Tây Midwest của Nguyễn Minh Bích ‘Vớ Cơm Của Phật/Stealing Buddha’s Dinner’; như ‘Những Giấc Mơ Hương/Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora’ của Andrew Lam); về những điềm báo về một quá khứ Việt Nam (như ‘Sách Muối/The Book of Salt’ của Monique Trương tả cuộc gặp gỡ giữa người đầu bếp của Gertrude Stein và Hồ Chí Minh; như ‘Giàn Liễu Thiêng/The Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family’ của Dương Văn Mai Elliott).

Liệt kê này còn dài nữa. Bất kỳ ai dùng được Google đều có thể khám phá ra nguồn văn chương từ người viết Việt Nam và từ người viết Mỹ-gốc-Việt. Nhưng rất nhiều người ở đây và ở các quốc gia khác không muốn biết đến, hay khi nghe nói có một tác phẩm của một tác giả Việt Nam được phát hành, thì họ chỉ thích phát biểu là, “Có thế chứ, một tiếng nói của người Việt Nam”. Thật sự, đã có rất nhiều tiếng nói, vì người Việt Nam ăn to nói lớn. Nhưng những người không hiểu tiếng Việt thường không nghe đến họ, như những người chỉ muốn nghĩ đến người Mỹ khi nghe hai chữ ‘Việt Nam’, như những người chỉ đề cương mỗi một quyển sách về Việt Nam trong chương trình giảng dạy trong rất nhiều lớp học cấp cao đẳng về chiến tranh Việt Nam, cho dù quyển đó rất xứng đáng như cuốn ‘Nỗi Buồn Chiến Tranh/The Sorrow of War’ của Bảo Ninh. Quyển này không những là một tác phẩm kinh điển về chiến tranh từ miền Bắc Việt Nam – nó là một tác phẩm chiến tranh kinh điển của bất cứ thời gian hay không gian nào.

Còn nói về Đảng Cộng Sản Việt Nam, thì họ cũng thế, họ không muốn nghe đến vài tiếng nói nào đó. Bảo Ninh giờ đã im hơi bặt tiếng, cũng như nhà văn đồng xứ của ông, Dương Thu Hương, người cựu chiến sĩ Bắc phương vỡ mộng, bỏ nước ra đi, vì những tác phẩm chống cộng sản của bà, như ‘Tiểu Thuyết Vô Đề/Novel Without A Name’ và ‘Thiên Đường Mù/Paradise of the Blind’. Còn về tiếng nói của người viết Mỹ gốc Việt, tuy ngoài này thỉnh thoảng chúng ta có được nghe đến – rồi lại bị quên béng đi – rất ít khi chúng ta được nghe thấy ở trong nước Việt Nam. Chúng ta là những kẻ bại trận, những kẻ phản quốc, những kẻ phản động hay chỉ là những người ngoài cuộc trông thấy được cái rỗng tuếch đằng sau một cơ chế đảng trị đề cao chủ nghĩa cộng sản nhưng điều khiển quốc gia như một cơ chế độc tài chuyên chính tư bản.

Như bà Lê Lý Hayslip, chúng ta nằm giữa hai chiến tuyến, Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếng Việt và tiếng Anh, chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản. Tuy tình thế khó khăn như vậy, nó lại là một môi trường thuận lợi cho người viết chúng ta. Chính cái sự bực bội, bị kèm cặp hai bên này, khiến chúng ta cứ viết, cứ viết và cứ viết, với niềm hy vọng là chúng ta có thể thay đổi quan niệm của mọi người mỗi khi họ nghe đến hai chữ Việt Nam.

Nguồn:

The NY Times, ‘The Great Vietnam War Novel Was Not Written by An American’, Nguyen Viet Thanh, 2 May 2017

https://www.nytimes.com/2017/05/02/opinion/vietnam-war-novel-was-not-written-by-an-american.html?_r=0

bài đã đăng của Nguyễn Thanh Việt

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

1 Bình luận

  • TQ says:

    Cuối năm 1995. Gặp anh Nguyễn Mộng Giác lần đầu. Mặt gặp mặt chứ thư từ và điện thọai thì đã suốt nhiều năm trước ngày gặp. Tới thăm Văn Học đi cùng với người hướng đạo, anh Hoàng Khởi Phong. Hai người khách vừa ngồi xuống chủ nhà đã rạng rỡ cười tươi làm luôn một mạch reo vui, có như là ai vừa thông tin rằng VN vừa chấm hết đại nạn Cộng Sản “… Biết không? Văn Học đang làm một số các ngòi bút thế hệ thứ hai. Hay. Hay, hay ngoài sức mong mỏi. Vui, thành thực mà nói, vì sự có mặt nhanh quá, nhanh hơn mình mơ ước, kỳ vọng, nhiều ghê.” Người chủ bút Văn Học đang nói về một số báo đang in, sẽ có trong đó những ngòi bút quả nhiên là mới,… Đinh Linh, Phùng Nguyễn, Andrew Lâm, Andrew X. Pham, Nguyễn Quí Đức… Nay, 2017, đọc bài này, có ước ao giá như, giả như, những Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, còn quanh đây để mà reo vui, không chỉ một mà nhiều lần nữa, với sự tiếp tục của không thể nêu hết bao văn tài đang ‘đâm thẳng vào giòng chính’ (như cách nói của Văn Học buổi ấy) trong nhất là năm sáu năm qua. Nói lớp trước ngã xuống cho lớp sau bước tới thì khí dõng dạc quá đáng, nhưng mà ngậm ngợi phải cảm kích rằng, quả nhiên chính những Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Khánh Trường,… của văn học hải ngoại đã, bằng mắt xanh và sự làm việc kiên trì của họ, có mở rộng một đại lộ mang những bảng hiệu Văn, Văn Học, Hợp Lưu, để chuẩn bị cho ngày này: lớp tài hoa mới, lứa nhà văn mới, nay đang mạnh dạn vượt lên, viết, sống, và nói, tỉnh táo, mạnh dạn, những điều mà kẻ khác đã không thể làm hết, vì bức tường ngôn ngữ, vì dị tộc, dị quan điểm, khoảng cách, chỗ đứng và quan tâm.

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)