Nhà thơ Wislawa Szymborska (photo: Paweł Piotrowski)
Vào cuối thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21, thi ca thế giới rời bỏ địa bàn hoàng kim của tâm lý học Sigmund Freud và chia tay những phong trào nghệ thuật vương giả như Siêu Thực, Ấn Tượng, Trừu Tượng…. để tìm cách tiếp cận đời sống sâu sắc và chi tiết hơn.
Ảnh hưởng bởi sự mâu thuẫn giữa Cấu Trúc Luận và Giải Cấu Trúc, những thi sĩ hiện tại chú trọng hơn về sự trần trụi của ngôn ngữ thơ. Đơn giản hóa những "huyền thoại", những "ẩn mật" của ngôn từ, để sự thật dễ có cơ hội lộ diện qua chữ nghĩa.
Sự sáng tạo bổng nhiên bị đánh thức bởi câu hỏi ngờ vực khả năng diễn đạt của tác giả và khả năng tiếp thu của độc giả; ngôn ngữ nắm phần chủ yếu giữa viết và đọc. Ngôn ngữ có làm tròn chức năng diễn đạt như người ta tin tưởng trước đây? Hoặc ngôn ngữ đã vượt qua tầm kiểm soát của con người?
Trong lúc sự ngờ vực chưa ngã ngũ, mỗi thi sĩ chân chính trong thời đại này, đều phải tự tìm một "thứ" ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung để thể hiện thơ. Wislawa Szymborska đã chọn cho mình con đường thi ca, không phải riêng rẻ, chỉ vượt trội hơn sáng tác đương thời về những phương diện:
– Hài tính.
– Thao thức.
– Đơn thuần.
– Đậm Đặc.
– "Tôi Không Biết.”
Szymborska làm văn chương một cách tự trọng, âm thầm, cẩn thận trong từng sáng tác một. Những nghịch lý, mâu thuẫn được bà trình bày một cách đơn giản, dù những chủ đề rất phức tạp, tàng ẩn triết lý và đầy những ám ảnh. Thơ bà trải rộng từ xã hội, chính trị cho đến tâm lý, tâm linh. Cũng như những thi sĩ lớn đương đại, cần phải lưu tâm đến bản chất mơ hồ, âm tố trong thơ của bà.
Bà chỉ cho ra đời chính thức 250 bài thơ; có những nguồn khác, cho biết khoảng 300 bài. Hầu như bài nào cũng nhận được sự ái mộ và ca ngợi của giới thưởng ngoạn. Khi được báo chí và nhà phê bình đặt câu hỏi về số lượng ít ỏi của thơ, bà trả lời: "Tôi có một thùng rác thơ trong nhà tôi".
· Hài Tính.
1966, trong một cuộc phỏng vấn, bà đã cho biết, bà làm thơ từ lúc nhỏ. Bà viết những bài thơ ngắn và nếu bố bà thích bài thơ nào, bà sẽ đòi ít tiền. Bà nói rằng để lấy được tiền của bố, thơ của bà phải dí dỏm, không có nhiều lời trữ tình. Chính bà, từ trẻ đã thích những câu chuyện khôi hài.
Sự khôi hài của bà có mực thước. Người đọc không tìm ra ý tứ bật tiếng cười lớn, chỉ là nụ cười thú vị và ngầm đồng thuận về những cay đắng phi lý trong cõi nhân sinh. Đặc biệt, có khi là nụ cười châm biếm, chê trách nhưng không có lòng ghét bỏ hoặc oán hận. Thông thường là những nụ cười hết sức băn khoăn.
…Có lẽ, chỉ có hai người trong một ngàn người
Thích thơ
như họ thích phở gà
thích lời khen, thích màu xanh
thích khăn quàng quen thuộc
thích lối sống cá nhân
thích vuốt ve chó.
Thơ
nhưng thơ là gì?
….Tôi không biết, nhưng bám lấy thơ
như vịn lan can cầu thang, đứng vững.(“Niektorzy lubia poezje” (“Ít người thích thơ”)
Sự khôi hài của bà không nằm trong diễn đạt mà nằm trong bản tính. Sự khác biệt tương tựa như giữa người học nhiều chuyện tiếu lâm để kể lại và người bẩm sinh ăn nói có duyên, khiến người nghe bật cười. Bà kể chuyện trong bảo tàng viện:
Bát đĩa bày biện nhưng không cảm thấy thèm ăn.
Chưng nhẫn cưới nhưng không có tình yêu trở lại
ít nhất đã ba trăm năm.
….Còn như tôi, vẫn sống, hãy tin tôi nói.
Chuyện tranh đấu giữa tôi và quần áo vẫn xảy ra.
Chúng chống đối, dại dột, bướng bỉnh!
Quyết sống mãi sau khi tôi qua đời.(“Muzeum” (“Bảo Tàng Viện”)
Phần nhiều, sau nụ cười là vài điều gì khiến niềm vui ngưng lại vì thắc mắc. Những tứ thơ nho nhỏ, bình dị, mang nét cười u mặc có tính Thiền:
Gõ cửa phiến đá.
Tôi đây, hãy cho tôi vào.
Đá trả lời, "Tôi không có cửa."(“Rozmowa z Amieniem” (“Đối Thoại Cùng Phiến Đá”)
Peter Ustinov nói rằng, "Hài kịch đơn giản là một cách thế khôi hài của lối sống nghiêm túc," (Comedy is simply a funny way of being serious.) Quan điểm này bàng bạc trong khắp 250 bài thơ của Szymborska. Những ý tưởng và hình ảnh hài hước đến một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không kiểu cách, không cực đoan; bà khiến cho người đọc dễ dàng đón nhận, cho dù đôi khi không đồng ý.
Sau bao năm đôi ta hội ngộ
chỉ hai chiếc ghế biết chuyện trò
qua chiếc bàn lạnh lẽo.(“Pierwsza Milosc”(“Mối Tình Đầu”)
Đời sống trần gian tính ra khá rẻ.
Ví dụ như mơ, không trả xu nào.
Chuyện tưởng tượng, không thành chỉ tốn sức.
Sở hữu xác thân, chỉ được xác thân…(“Tutaj”(“Ở Đây”)
Ý nhị khôi hài trong thơ của Szymborska không chỉ mang đến thú vị, băn khoăn hoặc thắc mắc, mà từ tốn đưa ra những nhắc nhở, khiến cho người đọc tử tế phải suy tư:
Hôm nay ông hát thế này: la lá là la la….
Còn tôi hát như vậy: la lá là la la…
Bạn có nghe ra sự khác biệt?(“Ca Sĩ Opera Về Già”)
Đời sống không có thắc mắc gì về đời sống, là đời sống chết. Những ai mỗi ngày không có gì kinh ngạc hoặc mâu thuẫn với sự ‘hiện hành chặt chẻ tự động’ của đời sống, họ đang sống trong trạng thái " mộng du văn minh hóa."
Nhưng chữ “Tôi” gây rắc rối nhất.
Nó xuất hiện trong sinh hoạt thông thường,
hàng ngày lớn lên nhưng không chung tập thể,
nó ở thì hiện tại nhưng thuộc thời tiền sử,
đặc biết, vẫn tiếp diễn,
dù chúng ta biết đã ngưng nghỉ lâu rồi.(“Wyznania maszyny czytającej”(“Lời Thú Tội của Máy Đọc Sách”)
Hài tính không phải là điểm đặc thù của thơ Szymborska. Người đọc có thể tìm thấy nhiều cách cười khác nhau trong thơ những thi sĩ quá cố hoặc đương đại. Hài tính trong thơ của bà chỉ là những nụ cười hóm hỉnh của một người thường xuyên suy tư, vừa phát giác ra điều gì ngộ nghỉnh trong đời sống quen thuộc hàng ngày.
Nhưng có một lối nhìn đúng đắn hơn, đó là nụ cười Szymborska thường phát xuất từ một sự kinh ngạc về những chuyện tưởng chừng như đã được người đời chấp thuận lâu nay.
· Thao Thức.
Không có một nghệ sĩ nào thành danh trên thế giới mà không thể hiện nội lực qua bản lãnh thao thức về nhân sinh. Wislawa Szynborska cũng không ngoại lệ. Những điều bà thao thức bao gồm từ những chuyện trọng đại của linh hồn qua đến những chi tiết linh tinh trong xã hội hoặc những suy tư thầm kín của tâm lý. Những việc đó không có gì lạ. Có lẽ, ai hay nghĩ ngợi, sẽ có cùng chủ đề. Khác nhau ở chỗ: cách diễn đạt câu trả lời hoặc diễn đạt câu không trả lời, không phải là bản thân của câu trả lời.
Trong bài diễn văn đọc khi lãnh giải Nobel 1966, bà kết luận rằng, "Wygląda na to, że poeci będą mieli zawsze dużo do roboty.: Dường như các nhà thơ sẽ luôn luôn có nhiều việc phải làm." Điều này dường như trái ngược lại quan niệm thông thường về thi sĩ. Mộng mơ, hoang tưởng và thất bại là những cụm từ gắn liền với động từ làm thơ. Như vậy, theo Szymborska, việc gì vừa nhiều vừa phải làm, dành cho thi sĩ?
Câu trả lời khi ẩn khi hiện trong thơ của bà, có thể diễn giải ngắn gọn: Thi sĩ bận rộn thu thập kinh nghiệm sống, nghiền ngẫm và tái tạo vào thi ca.
Không có kinh nghiệm không có thơ. Dù hoang tưởng, tưởng tượng hoặc hư cấu, kinh nghiệm vẫn là sức sống cho tri thức và là nguồn sáng tạo của vô thức.
Kinh nghiệm sống từng trải qua chiến tranh thứ hai, và quan điểm riêng của cá nhân, bà đã trình bày những thao thức cá biệt vào dòng khắc khoải chung.
Phản kháng chống lại nợ
ta gọi là linh hồn
Đó là điều duy nhất
không có trong danh sách cho vay.(“Nic Darowane”(“Chẳng có gì tặng không”)
Khi tôi phát âm chữ “Tương Lai”
âm vần đầu tiên đã trở thành quá khứ.
(“Try slowa najdziwniejsze” (“Ba chữ huyền hoặc nhất”)
Đặc biệt trong bài thơ " Spis," (“Danh Sách”), những câu hỏi không cần trả lời, những câu hỏi không thể trả lời, những câu hỏi không đủ thời giờ để trả lời, nhưng sâu thẳm nhất: câu hỏi bản chất tự nó là câu hỏi. Đặt câu hỏi về một điều gì không biết, tức là hỏi về một cái hỏi. Thao thức này dẫn đến thao thức kia. Thắc mắc này dẫn tiến thắc mắc khác. Câu hỏi liên tu, liên hoàn, chính là vấn mệnh của con người, từ việc nhỏ nhặt cho đến chuyện đời sau.
Một số câu hỏi nào đó
tôi ghi vội trước khi đi ngủ
Khi thức dậy
không thể nào đọc được
Đôi khi tôi nghi ngờ
đây là loại mật mã
nhưng ý nghĩ này cũng là câu hỏi
một ngày nào sẽ ruồng bỏ tôi.
Ngay từ thuở bắt đầu, 1954, tập thơ Pytania zadawane sobie (Tự Vấn), đã chứng tỏ bản lãnh của bà đặt nặng trên suy tư về kinh nghiệm sống. Những kinh nghiệm phổ thông được đa số bình thường hóa, trở thành băn khoăn, tạo ra những câu hỏi: hỏi mình, hỏi ta.
Ta có mở số phận mỗi người như cuốn sách,
tìm hiểu cảm xúc thay vì chữ viết hoặc trình bày?
….Chiếc ly trên bàn, không ai lưu ý, cho đến khi rơi,
bởi hành động khinh suất.
Người đối xử với người
Phải chăng thật sự đơn giản?
· Đơn thuần.
Từ khi Giải Cấu Trúc do Jacques Derrida (1930-2004) đưa ra, gây nên sự tranh luận rộng rãi toàn cầu về bản chất và hiệu năng của chữ nghĩa. Ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ thơ. Sự nghi ngờ đặt lại trên những điểm trang, những bóng bẩy, những chải chuốt, những cô đọng, những thứ đã từng được xem như là sự phân biệt giữa thơ và văn. Càng lúc câu thơ càng gần gũi với những câu nói bình thường.
Về hình thức, Szymborska chú trọng về sự linh hoạt của ngôn ngữ để diễn tả những khám phá khác thường, được quan sát bởi quan điểm lạ thường, trong đời sống hàng ngày.
Bà không chuộng sự cầu kỳ, bóng bẩy và phức tạp hóa ý tứ thơ. Bà ít khi tạo chữ mới. Chú tâm về ý nghĩa liên tưởng và biểu tượng. Chú tâm sự diễn giải của chữ và câu đối với ý tứ thơ trừu tượng hoặc đa nghĩa.
… Kỳ thi về lịch sử nhân loại
Tôi ấp úng trả bài lanh quanh.
Một con khỉ lắng nghe, nhìn tôi chế giễu
Con kia thái độ lơ là
nhưng khi tôi không biết trả lời câu hỏi
khỉ nhắc nhở bằng cách dịu dàng
rung dây xích.(“Dwie Malpy Bruegla” (“Hai Con Khỉ của Brueghel”)
Con khỉ của Darwin và lịch sử nhân loại; con khỉ bị xiềng xích; con khỉ rung dây xích nhắc nhở câu trả lời; những móc nối giữa các hình ảnh tạo ra sự nhột nhạt của kiến thức con người về chính thân phận của mình.
Trong bài thơ "Việt Nam," bà đơn giản hóa mọi chuyện, chỉ dùng câu đối thoại.
Bà mẹ Việt Nam, hỏi điều gì cũng trả lời: Không biết. Kể cả sinh mệnh cá nhân, làng xóm, quốc gia. Nhưng khi hỏi đến những đứa con của mẹ:
“Chúng có phải là con của bà không?"
" Vâng."
Một bài thơ ngắn đã đủ nói lên cá tính của mẹ Việt nam. Bà cho rằng người mẹ Việt Nam hy sinh cả cuộc đời miễn là bảo vệ được con mình.
Đôi khi, đọc thơ bà, cảm thấy khó hiểu, nếu không đứng xa ra để nhìn trọn vẹn một cảnh lớn hoặc không liên kết với một diễn biến trong lịch sử hoặc trong huyền tích. Như bài thơ "Tháp Babel.”
Sự cực đoan và thiển cận của người xây tháp Babel với ý định chọc trời, gây ra hỗn loạn ngôn ngữ, không còn hiểu nhau. Đưa vào chuyện tình của “Tháp Babel” (“Na Wieezy Babel”), khiến đối thoại giữa hai người yêu nhau trở thành khó hiểu. Họ nói cùng ngôn ngữ mà không thật sự đối thoại. Có mấy kẻ yêu nhau lại hiểu nhau rõ ràng?
Trong bài "Đám Tang," những câu nói chuyện trò thường khi gặp nhau ở đám tang, được bà sử dụng "mơ hồ," không rõ ai nói với ai hoặc nói về điều gì. Những câu đối đáp có khi ngoài miệng, có khi trong lòng, khiến cho nội dung trở thành phức tạp, nói lên sự nhiêu khê của xã hội loài người..
Bà cố ý dùng sự đơn giản của ngôn ngữ và thể thơ để độc giả có thể tìm sâu, khám phá những tư duy và ý niệm bên trong hình thức. Có thể dùng hai câu thơ trong bài "Pod Jedna gwiadka” (“Dưới một ngôi sao nhỏ") để tóm lược phương pháp diễn đạt của bà: "…Tôi mượn chữ nghĩa nặng ký, rồi khổ công tái tạo để chúng được nhẹ nhàng hơn."
· Đậm Đặc.
Đặc điểm nổi bật trong thơ của Szymborska là sự dày đặc của hình ảnh, tứ thơ, tiểu ý trong câu thơ và trong bài thơ. Có lẽ, cũng như đa số thi sĩ thành danh, những bài thơ buổi đầu thường đơn giản, sinh động, lộ diện tài hoa. Thơ theo người, người già dần với tư duy và kinh nghiệm sống, thơ phức tạp và đặc quẹo hơn. Không phải là cô đọng, mà mật độ ý tứ chật hơn trong cùng một câu thơ và bài thơ. Như cà phê, có loãng có đậm đặc, chứa trong cùng một tách uống.
Sáng tác một bài thơ, mượn ví dụ như tạo một mạng lưới (website). Khi nhìn vào chỉ thấy trang chủ với hình ảnh và đề mục. Có trang mạng đơn sơ với vài tiết mục. Có trang mạng dày đặc ảnh tượng và chữ nghĩa. Có những đề mục nhấn vào vài lớp bên trong là hết. Có những đề mục, nhấn rồi tiếp tục nhấn, mỗi lần mỗi đưa người đọc đi sâu vào chi tiết, đi rộng trong nội dung. Đọc thơ thì không nhấn vào máy nhưng nhấn vào tim và óc. Những đề mục như những tứ thơ lớn. Nhấn vào để tìm tứ thơ nhỏ, truy đuổi ý thơ ẩn núp bên trong. Những tứ thơ hay thường mở rộng, đào sâu khi người đọc "nhấn" vào. Thơ của Szymborska thường có nhiều "tứ đề mục". Mỗi đề mục này sẽ dẫn người đọc vào nhiều tiểu mục hoặc chi tiết khác. Bà sáng tác ít thơ, có nghĩa: bà bỏ công xây dựng một bài thơ trong thời gian dài. Tất nhiên, một người đọc tử tế cũng phải mất một thời gian cần thiết để mở lại những then chốt, cửa ngỏ, đi sâu vào ý tứ thơ.
Trong những bài thơ chắt lọc, bà đã cho thấy những thực tế của cuộc sống phi lý hàng ngày và sự chấp nhận, đầu hàng vô ý thức của con người như trong những bài: “Quyền Chọn Lựa,” “Mozliwosci;” “Nỗi Thầm Lặng Của Cây,” “Milczenieroslin,” “Lời Cảm Tạ Ngắn,” “Podziekowanie” …. Nhất là những bài thơ về cuối đời trong những tập thơ như Dấu Hai Chấm (Dwukropek), Ở Đây (Tutaj) và Vừa Đủ (Wystarczy).
Dĩ nhiên như người đọc đã biết, uống một tách cà phê nhạt loãng và một tách cà phê keo đậm, thật là khác nhau. Thơ hôm nay cần có sự dày đặt trên mặt chữ lẫn nội dung mới có khả năng cưu mang những phức tạp, rối ren, chằng chịt của đời sống hỗn mang hiện tại.
"Tôi Không Biết."
Nhưng nếu nhìn toàn thể tác giả và tác phẩm, Wislawa Szymborska, tinh thể nằm trong cụm từ "Tôi không biết."
Đây là một đức hạnh chung cho tất cả con người thời đại. Với sức mạnh của điện tử, internet, thư viện, computers, iphone … kiến thức trở thành thức ăn phổ thông, dễ dàng tìm thấy như ra phố chợ thấy thực phẩm đại trà. Người đọc sách, đọc net, dễ tự cảm thấy "thông kim bác cổ". Chưa nói tới ăn uống những thực phẩm độc hại, thiếu vệ sinh, thiếu phẩm chất … sẽ khiến cho hiểu biết chứa đựng kiến thức bệnh, trong nhiều trường hợp trở thành chứng nan y.
"Tôi-không-biết" là ý thức cần thiết cho bất cứ ai, nhất là kẻ sĩ, triết gia và nghệ sĩ, đứng đầu là thi sĩ. "Tôi-biết" là nguyên nhân tạo ra những mâu thuẫn, phức tạp, công kích….Nếu là những người nắm vị trí quan trọng trong xã hội, quốc gia, "Tôi-biết" có khi tạo ra những thảm họa cho quần chúng, cho dân tộc; lớn hơn nữa như thế chiến thứ hai, tàn sát biết bao nhiêu nhân mạng.
Trong bài diễn văn Nobel, bà Szymborska nói rằng: " Đó là lý do tại sao tôi đánh giá rất cao cụm từ " tôi-không-biết ". Tuy nhỏ nhưng nó bay trên đôi cánh hùng vĩ. Nó mở rộng đời sống, bao gồm khoảng không bên trong chúng ta, cũng như bên ngoài rộng lớn, nơi địa cầu nhỏ xíu đang treo lơ lửng. Nếu Isaac Newton đã không bao giờ nói với bản thân: " tôi-không-biết ", những trái táo trong vườn cây có thể rơi xuống đất như mưa đá. Tốt nhất, ông ta cúi xuống lượm lên, ăn và thưởng thức chúng. Một người đồng hương của tôi, Marie Sklodowska-Curie nếu không bao giờ nói với mình " tôi-không-biết ". Thế thì cô ấy sẽ là giáo viên giảng dạy hóa học trong các trường trung học tư thục dành riêng cho thiếu nữ con nhà tử tế. Đây là một công việc hoàn hảo đứng đắn mà cô có thể làm suốt đời. Nhưng cô tiếp tục nói " tôi-không-biết", những chữ này đã đưa cô đến Stockholm, chẳng những một mà hai lần, nơi mọi người với tinh thần tìm kiếm liên tục để vinh danh bằng các giải thưởng Nobel.
Thi sĩ cũng vậy, nếu họ chính thật là thi sĩ, phải tiếp tục lập lại " tôi-không-biết ". Mỗi bài thơ đánh dấu một nổ lực trả lời, nhưng khi vừa chấm hết, thi sĩ bắt đầu lưỡng lự, hiểu ra câu trả lời tạm thời này hoàn toàn không đầy đủ. Vì vậy, cố gắng một lần nữa rồi một lần nữa, sớm muộn gì, những kết quả liên tiếp không hài lòng sẽ đóng thành tập bởi chiếc kẹp giấy lớn mà văn học sử gọi là " tác phẩm "….
Riêng về chuyện làm thơ, mỗi bài thơ chứa đựng một phần của "Tôi biết". Sự tự phụ của "Tôi biết" khiến bài thơ trở thành báu vật. Thường khi chính tác giả cũng quên rằng, đã là báu vật, tức là không dễ tìm thấy. Nếu mỗi tháng đều tìm thấy một, hai báu vật, liệu còn có thể xem là báu vật?
Với tâm hồn nhạy cảm, người làm thơ dễ bị xúc phạm khi báu vật của mình không được người khác xem trọng. Bắt đầu từ những loại thương tích này, thế giới thơ của người đó mất dần ý nghĩa và giá trị. Szymborska từ vị trí "Tôi-không-biết" nhìn số phận bài thơ của bà:
Trường hợp hay nhất:
bài thơ tôi ơi, người ta chăm chú đọc,
thảo luận và ghi nhớ.
Tồi tệ nhất:
chỉ đọc thôi.
Trường hợp thứ ba:
ngươi được viết
nhưng một lát sau, bị quăng vào sọt rác.
Cuối cùng và có thể xảy ra:
ngươi rơi vào chốn bất thành văn tự,
chỉ ậm ự đôi điều cho khoan khoái bản thân.(“Cho bài thơ của tôi”)
Ngoài ra, một góc nhìn khác về Wislawa Szymborska để thấy được con người toàn diện của bà. Một nghệ sĩ tài hoa thường tài hoa về nhiều mặt.
. Nghệ Sĩ Bưu Thiếp.
Bà yêu chuộng những bưu thiếp đẹp. Sưu tầm và dành dụm những bưu thiếp này để gửi cho bạn bè. Nhưng rồi, bưu thiếp có sẵn không thỏa mãn những điều bà tìm đến. Từ đó, bà tự làm những bưu thiếp bằng cách cắt dán những hình nghệ thuật khác nhau. Những bưu thiếp này, dùng gửi cho bằng hữu. Sáng tác bưu thiếp kéo dài 40 năm. Mỗi năm vào đầu tháng 11, bà để bảng trước nhà: "Xin đừng ghé thăm tôi trong vài ngày, bởi vì tôi đang làm nghệ sĩ". Bà dùng thời gian này để làm những bưu thiếp dùng vào dịp lễ lạc. Nhà đạo diễn Woody Allen khi nhận được bưu thiếp của bà đã phát biểu:"món quà này có ý nghĩa đối với tôi hơn những tượng vàng (Oscar) ở Hollywood".
Nhiều nơi trên thế giới đã tổ chức triển lãm bưu thiếp của bà, một sự sáng tạo được hâm mộ.
Có thể kết luận rằng, chính cách diễn đạt độc đáo và đặc biệt về chiều sâu trong thơ đã làm bà nổi bật lên khỏi những thi sĩ hàng đầu của thế giới cùng thời. Cách sử dụng tứ thơ, hình ảnh, diễn đạt tượng trưng nhưng gắn bó và dễ hiểu với những bi hài hiện thực, khiến cho thơ bà vượt lên châm biếm và chế diễu truyền thống đã quen thuộc, để người đọc cảm được lòng quan tâm của một thi sĩ chân thật cùng đời sống. Không có một nghệ sĩ lớn nào mà không có lòng quan tâm đến con người, đến thế hệ tương lai và nghệ thuật mai sau.
Uśmiechnięci, współobjęci
spróbujemy szukać zgody,
choć różnimy się od siebie
jak dwie krople czystej wody.
….Bằng nụ cười, bằng tay ôm
cố tìm ra thỏa thuận
cho dù chúng ta khác nhau
như hai giọt nước trong.
Dallas, tháng 4, 2015