- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

Năm bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát

 

 

 

I. Giới thiệu:

Cao Bá Quát (高伯适; 1809?-1855), tự Chu Thần (周臣), quê quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Năm 1853, Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, chết giữa trận tiền Quốc Oai năm 1855. Vua Tự Đức đã ra lệnh thu hồi và tiêu hủy những tác phẩm văn chương của ông. Tuy nhiên, Cao Bá Quát được dân chúng kính ngưỡng về nhân cách, tài hoa, khí phách và tinh thần yêu nước thương dân của ông nên đã cất giấu được khá nhiều tác phẩm của nhà thơ. Tác phẩm của Cao Bá Quát còn được lưu truyền đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối.

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Giáo sư Dương Quảng Hàm, trong tác phẩm Việt Nam Văn Học Sử Yếu đã nhận định: “Cao Bá Quát là một văn hào có nhiều ý tứ mới lạ, lời lẽ cao kỳ.” Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã sớm bộc lộ trí thông minh mẫn tiệp khác thường trong lĩnh vực thơ phú. Thơ ông đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Tứ thơ thể hiện sự nhạy cảm, sắc bén, độc đáo trong cách cảm nhận về thiên nhiên, thời cuộc, nhân tình thế thái. Tài hoa nhưng phận bạc. Ông đã trải qua nhiều bi kịch trong cuộc sống nên khí thơ mạnh mẽ, kiêu kỳ nhưng sâu lắng tình cảm, thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, thể hiện niềm đồng cảm nhân hậu với những cảnh đời lao khổ và có thái độ phê phán mạnh mẽ đối với triều đình đương thời. Thơ văn Cao Bá Quát còn bộc lộ một tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm, tứ thơ mới lạ khác thường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự nghiệp sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát khá đồ sộ, chỉ kế sau Nguyễn Du.

Nguyên tác 5 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát được giới thiệu dưới đây, 落花 (Lạc Hoa), 對雨其一 (Đối Vũ Kỳ Nhất) và 對雨其二 (Đối Vũ Kỳ Nhị), 獨夜 (Độc Dạ), 獨夜遣懷 (Độc Dạ Khiển Hoài) trích từ sách Cao Bá Quát Toàn Tập: Tập 1, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, NXB Văn Học, Hà Nội, 2004.

(Thân thế và sự nghiệp của Cao Bá Quát được trang mạng vikipedia.org và thivien.net tổng hợp khá đầy đủ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm).

 

 

II. Nguyên tác 5 bài thơ Lạc Hoa, Đối Vũ Kỳ Nhất, Đối Vũ Kỳ Nhị, Độc Dạ, Độc Dạ Khiển Hoài của Cao Bá Quát và phần phiên âm, dịch nghĩa, chuyển dịch thơ Việt:

 

1.落花

杜鵑聲裡雨濛濛,
一夜枝頭泣落紅。
春色可憐留不住,
笑他薄倖嫁東風。

 

Phiên âm:

LẠC HOA

Đỗ quyên thanh lý vũ mông mông,
Nhất dạ chi đầu khấp lạc hồng.
Xuân sắc khả liên lưu bất trú,
Tiếu tha bạc hãnh giá đông phong.

 

Dịch nghĩa:

HOA RỤNG

Tiếng chim đỗ quyên (chim quốc) kêu trong cơn mưa phùn (mưa bụi) nhạt nhòa,
Suốt đêm trên đầu ngọn cây [có] tiếng khóc không thành tiếng [sắc hoa] hồng rụng.
Thương xót cho sắc màu mùa xuân không thể giữ ở lại được nữa,
Thôi đành cười cho mệnh bạc [của những cánh hoa?] đã may mắn [!?] bay theo ngọn gió đông.

 

Phỏng dịch thơ Việt:

HOA RỤNG

Đỗ quyên kêu trong mưa bụi nhòa
Đầu cây thầm khóc đêm hồng sa
Sắc xuân thương lắm làm sao giữ
Đành cười mệnh bạc gió đông qua.

 

 

2. 對雨其一

暴雨傾天漏,
飛濤颯地來。
勢連江色壯,
聲入夜風哀。
赤日行何道,
蒼生歎幾回。
客情吟望遠,
秋氣正相催。

 

Phiên âm:

ĐỐI VŨ KỲ NHẤT

Bạo vũ khuynh thiên lậu,
Phi đào táp địa lai.
Thế liên giang sắc tráng,
Thanh nhập dạ phong ai.
Xích nhật hành hà đạo?
Thương sinh thán kỷ hồi?
Khách tình ngâm vọng viễn,
Thu khí chính tương thôi.

 

Dịch nghĩa:

NHÌN MƯA LẦN MỘT

Mưa to như trời trút nước xuống,
Sóng tung lên ngập tràn mặt đất.
Sắc màu nối liền với dòng sông trông rất mạnh mẽ,
Tiếng [sóng] reo hòa với gió đêm nghe rất sầu thảm bi ai.
Mặt trời đỏ [trong ngày] đã đi đâu rồi?
Để dân đen oán than hoài vậy?
Khách gửi lòng mình trong giọng ngâm ngợi [và] trông vời nơi xa,
Cũng chính là lúc hơi thu đang giục giã.

 

Phỏng dịch thơ Việt:

NHÌN MƯA LẦN MỘT

Mưa to trời trút nước
Sóng lớn đất ngập đầy
Màu sóng sông cuồng bạo
Tiếng gió đêm rít dài
Mặt trời đi đâu vậy
Dân đen oán vì ai
Khách ngâm thơ ngóng mãi
Hơi thu giục nhớ hoài.

 

 

3. 對雨其二

峭璧栖修蚓,
高階噴伏泉。
白明空外鳥,
青破晚來煙。
歲月圍長坐,
江山閉獨眠。
陰雲誰觸汝?
天半尚油然。

 

Phiên âm:

ĐỐI VŨ KỲ NHỊ

Tiễu bích thê tu dẫn,
Cao giai phún phục tuyền.
Bạch minh không ngoại điểu,
Thanh phá vãn lai yên.
Tuế nguyệt vi trường tọa,
Giang sơn bế độc miên,
Âm (ám) vân thùy xúc nhữ?
Thiên bán thượng du nhiên.

 

Dịch nghĩa:

NHÌN MƯA LẦN HAI

Chỗ [vách] núi cao chót vót [có] loài trùng [kỳ lạ] bám vào,
Nước suối tuôn ra từ bậc đá cao.
Chim bay trắng cả bầu trời rộng,
Khói tan đi xanh hết buổi chiều về.
Năm tháng bủa vây rất lâu chỗ ngồi,
Núi sông cầm tù giấc ngủ cô độc.
[Bóng] mây rợp [hình như] đã chạm vào ai đó,
Nửa trời [kia] vẫn còn ùn ùn [xúc động một điều chi].

 

Chuyển dịch thơ Việt:

NHÌN MƯA LẦN HAI

Vách núi trùng ma bám
Bậc cao suối tuôn rơi
Chim bay trắng trời rộng
Khói tan xanh chiều phơi
Tháng năm vây chỗ trú
Sông núi nhốt giấc đời
Mây rợp nào ai đó
Nửa trời kia nghẹn lời.

 

 

4. 獨夜

城市喧卑地,
乾坤老病夫。
齏躬成冗剩,
屏跡且泥塗。
寒潦乃連發,
災黎況未蘇。
太平無一略,
鹿鹿聇為儒。

 

Phiên âm:

ĐỘC DẠ

Thành thị huyên ty địa,
Càn khôn lão bệnh phu.
Tê cung thành nhũng thặng,
Bính tích thả nê đồ.
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỷ vi nho.

 

Dịch nghĩa:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM

Nơi chốn thành thị ồn ào và thấp,
Giữa trời đất, một thân già bệnh hoạn.
[Giống như] một vật nhỏ mọn thừa thải phiền hà,
[Thôi thì ] bôi phết bùn đất [để] ẩn dấu tung tích.
Lạnh và lụt lội [cứ] phát sinh liên tiếp,
Tình cảnh đám dân đen chịu tai ương chưa hồi phục.
Thời thái bình [mà] không có một kế sách [nào cả],
[Đành phải chịu] xấu hổ [thân phận tầm thường] làm nhà nho.

 

Phỏng dịch thơ Việt:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM

Thành thị ồn và thấp
Giữa đời thân bệnh ta
Nhủ mình trơ phận bạc
Trét bùn dấu mặt già
Tai trời còn tiếp diễn
Ách nước vẫn chưa qua
Thời bình không biết tính
Đáng xấu hổ nho gia.

 

 

5. 獨夜遣懷

平生性僻自耽吟,
遊遍天涯每不禁。
廢簏偶披常撫髀,
僬桐誰賞獨論心。
閒多濁酒消磨易,
客久名山夢寐深。
為謝孤燈舊相照,
一春人事到如今。

 

Phiên âm:

ĐỘC DẠ KHIỂN HOÀI

Bình sinh tính tích tự đam ngâm,
Du biến thiên nhai mỗi bất câm.
Phế lộc ngẫu phi thường phủ bễ,
Tiêu đồng thùy thưởng độc luân tâm.
Nhàn (gian) đa trọc tửu tiêu ma dị,
Khách cửu danh sơn mộng mị thâm.
Vị tạ cô đăng cựu tương chiếu,
Nhất xuân nhân sự đáo như câm (kim).

 

Dịch nghĩa:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM CHẠNH NHỚ

Suốt đời [vốn] ưa sự quạnh vắng, thích ngâm ngợi [thơ phú],
[Chỉ có điều] không cấm nổi là [thú] dạo chơi cuối đất cùng trời.
Tình cờ tìm được [sách thơ phú] trong bồ cũ thường vỗ đùi [hứng chí sảng khoái],
[Giống như] ai thưởng thức tiếng đàn [được làm từ cây ngô đồng cháy sém], nhận ra tiếng lòng của kẻ chơi đàn [tri âm].
Rảnh rỗi nhiều, chén rượu đục cũng làm tan biến đi mất [nỗi niềm tâm sự],
Sống lâu nơi đất khách [nên] các núi nổi tiếng đã hằn sâu vào giấc mộng.
Cảm tạ ngọn đèn lẻ loi [đã] soi chiếu [cõi lòng] nhau từ lâu,
[Thôi thì] người và việc đời [lại] một mùa xuân nữa vẫn như hôm nay vậy.

 

Chuyển dịch thơ Việt:

MỘT MÌNH TRONG ĐÊM CHẠNH NHỚ

Suốt đời quen vắng lặng ca ngâm
Rong chơi cùng khắp thỏa lòng trần
Bồ sách năm xưa mừng gặp bạn
Đàn ngô tình cũ réo tri âm
Nhàn nhã tiêu sầu chung rượu đục
Mộng du khắc vợi núi non trầm
Tạ ơn đêm sáng đèn tri kỷ
Đời lại vào xuân chẳng ngại ngần.

 

 

04.2015