Dưới thời Stalin, từ 1928 tới 1953, 1500 nam và nữ văn sĩ đã bị hành quyết hoặc chết trong những trại tập trung cùng với vô số đồng bào của họ, bản thảo của họ bị cất giữ trong kho bí mật của KGB, Isaac Babel, người nổi tiếng rất nhanh khi những truyện ngắn của ông được xuất bản năm 1924, đã trở thành mục tiêu của Stalin vì ông vừa là người theo khuynh hướng tự do, vừa là người Do Thái. Babel từ chối viết theo chỉ thị của đảng. Theo lời kể của con gái ông, Babel “rút lui vào sự im lặng mặc dù đã được hứa hẹn những phần thưởng lớn lao nếu ông chịu viết trở lại.” Để trả lời sự mua chuộc của Stalin, ông nói: “Sự sáng tạo không cư ngụ trong những lâu đài.” Cuối cùng, vào buổi sáng tinh mơ ngày 16 tháng 05, 1939, Babel bị bắt và biệt tích cho tới mãi 15 năm sau, mới lại được nghe nhắc đến khi tin tức về cái chết của ông được thông báo trong văn kiện chính thức: ngày 17 tháng tư, 1941.
Bị kết tội oan ức là tham gia một âm mưu khủng bố, ông đã bị xử bắn.
Đám tù đã chết, cả chín đứa. Tôi cảm nhận được điều đó từ trong xương tủy của mình.
Hôm qua, khi hạ sĩ Golov, công nhân của Sormovo*, giết gã Ba Lan mảnh khảnh, tôi bảo sĩ quan tham mưu là ông hạ sĩ này đã làm gương xấu cho lính của mình, chúng tôi phải lập danh sách tù nhân để gọi họ lên thẩm vấn. Viên sĩ quan tham mưu đồng ý. Tôi rút cây bút chì và mảnh giấy ra khỏi ba lô và gọi Golov. Ném cho tôi cái nhìn đầy căm tức, hắn bảo, “Anh nhìn thế giới qua cặp kính cận đó của anh.”
“Đúng,” tôi trả lời, “thế còn anh, anh nhìn thế giới qua cái gì hở Golov?”
“Tôi nhìn nó qua cuộc sống khổ như chó của giới công nhân chúng tôi,” hắn nói, tay cầm bộ đồng phục Ba Lan với ống tay áo đong đưa rồi quay đi, bước về phía một trong những tù nhân. Hắn đã mặc thử, nhưng chiếc áo không vừa cỡ hắn – ống tay chỉ đến gần khuỷu.
Bây giờ Golov chỉ trỏ cái quần tây lịch lãm của người tù. “Mày là sĩ quan phải không,” Golov nói, một tay che mắt vì nắng chói.
“Không,” câu trả lời cụt ngủn của người tù Ba Lan.
“Bọn chúng tao không mặc thứ đồ ấy,” Golov lẩm bẩm rồi lặng thinh. Hắn không nói gì, run run nhìn đám tù, hai mắt mở lớn vô hồn.
“Mẹ tôi đan cho tôi,” người tù điềm tĩnh nói.
Tôi xoay lại nhìn người tù. Anh là một thanh niên trẻ với thân hình thon gọn và bộ râu quai nón loăn xoăn trên đôi má vàng bủng “Mẹ tôi đan cho tôi,” anh nhắc lại và cúi nhìn xuống.
“Bà ấy đan như máy vậy, bà già của mày ấy,” Andrushka Burak chêm vào. Burak thuộc dòng Cossack* có khuôn mặt hồng hào và mái tóc mịn, hắn đã lột chiếc quần từ xác chết người tù Ba Lan. Chiếc quần ấy bây giờ đang vắt ngang yên ngựa của hắn ta. Vừa cười, Andrushka vừa thúc ngựa về phía Golov, thận trọng gỡ lấy bộ đồng phục từ tay hắn, vắt nó bên trên chiếc quần trên yên ngựa, và, với cái quất nhẹ của cây roi, thúc ngựa rời khỏi chỗ chúng tôi. Lúc này, mặt trời ló ra từ sau đám mây đen, hắt ánh sáng chói chan lên con ngựa của Andrushka, đang phi nước kiệu vừa một cách xấc xược bằng những động tác vung vẩy vô tư lự của chiếc đuôi đã bị khấu. Golov thích thú nhìn theo gã Cossack. Hắn quay lại, thấy tôi đang lập danh sách tù nhân. Rồi hắn nhìn người tù trẻ Ba Lan có râu loăn xoăn hai bên má, kẻ đang nhìn lướt hắn với vẻ khinh mạn trầm tĩnh của tuổi trẻ và mỉm cười trước sự bối rối của hắn. Sau đó, Golov chụm hai tay lên miệng làm loa, hét lớn, “Đây vẫn là nước cộng hòa, Andrushka à. Rồi cậu cũng đến phần của cậu. Trả lại mớ đồ ấy đi.”
Andrusjka giả điếc. Hắn thúc ngựa phi nước kiệu, con ngựa nghịch ngợm vung vẩy cái đuôi, như thể không xem chúng tôi ra gì.
“Quân phản bội,” Golov gằn giọng. Với vẻ bực bội, mặt hắn đanh lại. Hắn quỳ một chân xuống, đưa súng trường lên nhắm, và bóp cò, nhưng không trúng.
Ngay lập tức Andruska xoay ngựa lại và phóng về phía viên hạ sĩ. Khuôn mặt đỏ hồng của hắn bộc lộ sự giận dữ. “Nghe đây, chú em!” hắn gằn từng chữ và đột nhiên hắn cảm thấy hài lòng vì giọng nói mạnh mẽ của chính mình. “Muốn chết hả, thằng khốn? Việc gì phải rối lên vì cái chuyện cho mười đứa Ba Lan về chầu ông bà chứ? Tụi tao đã giết hàng trăm đứa mà có cần mày giúp gì đâu. Tự nhận mình thuộc về giai cấp công nhân à? Vậy thì hãy thử làm cái gì đó coi cho được xem nào.” Rồi nhìn chúng tôi một cách hả hê, Andrushka phóng ngựa bỏ đi.
Golov không nhìn gã. Hắn đưa tay lên trán. Máu tuôn ra từ trán hắn như mưa tuôn khỏi đống cỏ khô. Hắn lật úp xuống, bò lê tới một cái hố, và trong một khoảng thời gian dài, giữ cái đầu bầm máu me dưới dòng nước cạn.
Bọn tù đã chết. Tôi cảm nhận điều đó tận trong xương tủy mình.
Ngồi trên lưng ngựa, tôi làm một danh sách chia thành cột thẳng hàng. Ở cột thứ nhất tôi cho họ số thứ tự, cột thứ nhì tôi ghi tên và cột thứ ba ghi đơn vị phục vụ. Công việc hoàn tất cho cả chín người. Người thứ tư là Aldolf Schulmeister, một viên thư ký từ Lodz*. Anh ta không ngừng bám lấy ngựa của tôi và gõ nhẹ rồi vuốt ve giầy ống của tôi bằng những ngón tay run rẩy. Chân anh ta đã bị gẫy vì một cú báng súng. Nó để lại một vệt máu và mồ hôi như của con chó bị thương, lấp lánh dưới ánh nắng, sôi bỏng trên cái đầu hói nứt nẻ vàng vọt của hắn.
“Ông là người Do Thái, phải không ạ!” Anh ta thì thầm, cuống cuồng vuốt ve cái bàn đạp yên ngựa của tôi. “Ông là –” hắn rú lên, nước bọt chảy ròng ròng từ miệng, và toàn thân mình hắn co giật mừng rỡ.
“Đứng vào hàng, Schulmeister!” tôi hét vào mặt gã Do Thái, và bỗng nhiên bị xâm chiếm bởi cảm giác uể oải đến điếng người, tôi tuột xuống ngựa và câu hỏi của hắn làm tôi nghẹn họng, “Làm sao anh biết?”
“Ông có cái nét tử tế của người Do Thái,” hắn nói bằng giọng lanh lảnh, nhảy cò một chân và để lại một vệt máu thoang thoảng phía sau. “Cái vẻ tử tế Do Thái đấy, thưa ông.”
Sự nhăng nhít của hắn có thêm mùi chết chóc và thật là khó khăn để có thể tránh né. Phải ít lâu sau đó tôi mới bình tĩnh lại, như thể mới bị chấn động não bộ. Viên sĩ quan tham mưu ra lệnh cho tôi đi lấy ổ súng máy rồi lên ngựa đi. Những ổ súng máy được kéo lên đồi, như những con bê bị tròng dây cương. Chúng lắc lư lách cách một cách đầy trấn an bên nhau, như cùng một bầy. Ánh nắng đùa giỡn trên những nòng súng bụi bặm, tôi thấy một cầu vồng sáng chói kim loại.
Gã Ba Lan trẻ với hàng râu quai nón quăn bên má nhìn những ổ súng với vẻ tò mò của những người dân quê. Anh ta ngả người về phía trước, nhờ vậy mà tôi thấy Golov đang bò ra khỏi cái rãnh, nhợt nhạt và rã rời, với cái đầu rách tét, và khẩu súng trường ngang tầm nhắm. Tôi đưa tay về phía hắn và hét lớn, nhưng âm thanh vướng lại, tắc nghẹn và phồng lên trong cổ họng tôi. Golov nhanh chóng bắn vào gáy người tù rồi đứng bật dậy. Người tù Ba Lan sững sờ đổi thế, xoay người như thể đang tuân theo mệnh lệnh duyệt binh. Bằng động tác chậm rãi như một người đàn bà trao phó mình cho một người đàn ông, anh ta đưa hai tay ra sau gáy, gục xuống mặt đất, và chết lập tức.
Nụ cười khuây khỏa và thỏa mãn vạch ra trên khuôn mặt Golov. Má hắn nhanh chóng phục hồi mầu sắc ban đầu. “Mẹ của tao không đan quần như thế cho tụi tao,” Hắn bẽn lẽn nói nhỏ với tôi. “Gạch tên nó ra và đưa danh sách tám đứa kia cho tôi.”
Tôi đưa danh sách cho hắn và nói một cách tuyệt vọng, “Mày sẽ chịu trách nhiệm cho cả thảy những chuyện này, Golov ạ.”
“Tao sẽ chịu trách nhiệm, dĩ nhiên rồi, nhưng không phải với bọn anh, mà là trước nhân dân của Sormovo! Họ biết phải trái, đúng sai.”
Đám tù đã chết. Tôi cảm nhận điều đó từ trong xương tủy mình.
Sáng nay, tôi quyết định phải làm điều gì đó để tưởng nhớ họ. Trong đội kỵ binh Hồng Quân, không ai ngoài tôi có thể làm việc đó. Đơn vị chúng tôi đóng quân trong một trang trại bị tàn phá ở miền quê Ba Lan. Tôi lấy cuốn nhật ký, đi vào vườn hoa, nơi vẫn còn nguyên vẹn. Lan dạ hương và hồng xanh mọc đầy nơi đó.
Tôi bắt đầu ghi chép về ông hạ sĩ và chín người tù đã chết. Nhưng ngay lập tức tôi bị khuấy động bởi tiếng động – thứ tiếng-động-quá-quen-thuộc. Cherkaskin, một tên xu nịnh, đang đánh cắp tổ ong. Mitya, người có đôi má đỏ hồng đến từ Orel, đang đi theo hắn với cây đuốc bốc lửa trong tay. Chúng nó trùm đầu thật kỹ bằng lớp áo choàng dày. Các vạch mắt của chúng bừng bừng. Từng bầy ong tìm cách đẩy lui bọn tấn công và rụng chết bên tổ của mình. Tôi bỏ bút xuống. Tôi quá sững sờ vì con số lớn lao của những tưỏng niệm cần phải viết ra.
1923
*Sormovo – một sân bay ở Nga
* Cossack – nhóm người từ miền nam nước Nga luôn chống đối chủ nghĩa cộng sản
*Lodz – thành phố lớn thứ ba của Ba Lan
*Orel – một vùng nhỏ ở miền tây nam nước Nga
Chuyển từ bản Anh ngữ “And Then There Were None” của Max Hayward, trong tuyển tập God’s Spies – Stories in Defiance of Oppression, biên tập bởi Alberto Manguel (Toronto: Macfarlane Walter & Ross, 1990)
.