I. BÓNG
Lão Kiên đi tàu hạng nằm. Mỗi phòng có bốn giường ngủ; hai tầng. Lão nằm giường bên dưới để bớt độ lắc lư. Hòa bình đã nhiều năm, đầu máy tàu được thay mới, các phương tiện phục vụ hiện đại hơn, nhưng đường tàu vẫn còn là con đường sắt hẹp, bề ngang chỉ một mét, được người Pháp làm ra từ đầu thế kỷ trước. Tương truyền vua Khải Định có dự lễ khánh thành.
Thời nội chiến, đường tàu bị phá hoại tan nát, nhưng khi hòa bình nó vẫn kích thước đó. Không có kinh phí đủ để làm một đường tàu rộng hơn theo mẫu đường hiện đại. Chỉ trên cái nền cũ thời thuộc địa. Lắp ghép lại những gì đáng ra phải phế thải. Nên đường ray hẹp, lỗi thời; tốc độ rùa. Thường xuyên gây tai nạn nơi những đường bộ cắt ngang. Mỗi tai nạn có ngay cái chết tập thể, rất tang thương. Tàu chạy càng nhanh sức chịu của đường ray hẹp bên dưới càng khổ sở. Lão Kiên tưởng như cái sống lưng mình xoắn lại, cong vổng lên theo tính khí con tàu. Đôi khi nó lồng lên như con cọp điên tốc độ cũng chỉ… hơn bốn chục cây số giờ. Lão rất sợ tàu tăng tốc. Nó có thể rời khỏi đường ray và bay xuống những vực sâu hai bên đường.
Lão Kiên thấy nao nao, khi màn sương về sáng tan dần, nhấp nhô vùng ánh điện xa xa một thị trấn. Lão tắt đèn ngủ. Kéo cái màn che mỏng cửa sổ. Giăng bên trên thị trấn mờ nhạt ánh đèn là giải núi ngây ngây dưới lưỡi trăng bạc hạ tuần.
Trời thưa mây. Loang thoáng những vệt hồng hoang. Chạy theo núi một giải mây xám đen mờ ảo, có tượng hình một người đàn bà nằm. Tấm khăn quàng mây ở cổ gió bay dài. Vạt áo mây bung lên đôi cánh đen. Hình tượng đầu núi bám mãi theo mắt nhìn lão Kiên. Lão nhủ thầm: “Bà vẫn đeo đuổi theo tôi mãi ư?”
Lão choàng chiếc áo ấm, bước ra ngoài hành lang. Đêm miền ngoài khá lạnh. Âm thanh tàu khàn đặc. Len qua mấu sắt nối đu đưa giữa hai toa, tay bấu vào thanh sắt, Kiên bước vào toa hàng ăn. Tàu nổi một hồi còi dài. Sắp qua một cây cầu sắt cũ kỹ. Tàu lắc mạnh làm lão suýt rớt xuống cái khoảng trống giữa hai mấu nối. Lão bất giác thấy hai đường ray song song bỗng chạy hình chữ Z trên mặt đất run rẩy. Không gian như sôi sùng sục. Lúc ngồi hẳn trên ghế lão còn chưa hết bàng hoàng. Nhắm mắt vẫn thấy những thành cầu sắt như hàng nghìn con rít đen lướt đảo.
Phòng ăn vắng vẻ, chưa một thực khách nào. Cô gái bồi bàn ngái ngủ. Đèn trang trí đỏ xanh nhấp nháy. Giữa tịch lặng Kiên bất ngờ nhận ra có mùi trầm. Không phải thoang thoảng. Mùi thơm rất cô đặc như bị phong kín trong căn phòng thiếu gió. Kiên chẳng thấy cái lư nào tỏa khói quanh đây. Lão rùng mình, nghi hoặc.
Phía núi, giải mây hình người đàn bà nằm vẫn bám theo con tàu đang chạy. Hình người có thay đổi đôi chút, cánh đen của áo mây bung cao lưng chừng trời, cái khăn quàng cổ mây kéo dài về phía sống lưng, như một cái đuôi rắn ám ảnh.
Lão rít một hơi thuốc, nghe ấm. Cô gái khá xinh xắn đã tỉnh ngủ. Cô lễ phép hỏi “Thưa, ông dùng gì ạ?” Kiên bảo cho tôi một cốc cà phê. Đột nhiên qua làn khói thuốc bay Kiên thấy một chiếc lư trầm hiện ra trên mặt bàn. Nó như được mang tới bởi một bàn tay vô hình.
Chiếc lư nhỏ, khá đẹp, màu đồng lâu ngày đã lên men xanh đen. Kiên đưa tay định nhặt xem, vô tình chạm phải một cánh tay lạnh lạnh trong khoảng không. Không thấy ai. Nhưng có một giọng nói khá nhẹ nhàng từ chỗ vô hình:
“Chào anh. Tôi đã ngồi trên cái ghế đang đối diện với anh qua một đêm rồi. Đêm dài quá. Anh có thấy khí trời năm nay lạnh hơn mọi năm? Nghe đài loan tin đang có một cơn bão hình thành ngoài biển đông.”
Lão Kiên có cảm giác đã nghe giọng nói này đâu đó một đôi lần rồi. Khi ngủ, hay cả khi mơ màng trong tỉnh thức. Nó xa vắng lắm. Vang thoát từ một khoảng không vô ảnh. Đầm đầm cái hương vị hờn oán, đau đau. Vùi lão dưới lớp cỏ ngập úa kỷ niệm. Hoặc treo lơ lửng trong những giấc mơ ngột ngạt:
“Xa quê, bỏ vợ đã mấy mươi năm, anh nên về để xem cái đốt xương cụt của người anh từng ôm ấp. Con gái anh sắp trở về quê nhà quật mộ em, để hốt hài cốt mẹ đem qua Mỹ. Bà ấy qua đời cũng đã nhiều năm.”
– Cảm ơn cô, tôi có thức uống rồi. Tôi đang uống nước khoáng đây này.
Trên bàn bỗng dưng có một chai nước trong. Cô bồi bàn đã nhìn thấy một người đàn bà ngồi trên chiếc ghế trống. Kiên không hề thấy.
Lão nghe trong mơ hồ một hơi thở dài. Thoáng một mùi người đàn bà. Cái hơi da thịt vô hình này đã từng như quen thuộc. Rất cũ. Hình dựng từ một tiềm thức xa xưa. Nó rung chuyển, biến ra tâm thức… Liếp cửa tre, một căn phòng nhỏ, mở ra mặt nước sông Thu lấp lánh dưới nắng trong. Hoặc đấy ắp đêm trăng mùa. Hoặc phong kín trong mịt mùng đông. Những buổi sớm ghe thuyền từ nguồn Vu gia Giao thủy, chở sản vật về xuôi. Một thằng Kiên trai trẻ thuở ấy vào đời, bồng bồng như sóng. Đúng rồi, làn da thịt này… như lửa bén quá khứ; đêm, trong liếp cửa; cũng đà mấy mươi năm.
“Uống cà phê đi anh. Kẻo nguội. Sớm lạnh thế này uống một ngụm nóng thì tuyệt…Sao anh thẫn thờ quá vậy.” Bóng đánh thức.
2
Trời rưng rưng sáng. Âm dương rõ thực hơn. Giải mây đen đầu núi mang hình người đàn bà nằm tan dần. Ánh điện mơ hoặc từ các làng mạc xa trong đêm đã tắt. Tàu chạy qua một vùng cát ven biển. Dương liễu xanh ngàn trong sương sớm. Hình như đài phát thanh loan một tin báo bão xa.
Chỗ ghế trống, thoảng mùi da thơm và trầm ngát, bây giờ có một người ngồi. Giải mây đầu núi đêm qua đã tan đi, để hóa hình một người đàn bà trước mặt lão Kiên. Lão nhủ thầm: “Bà bay theo núi, bà ngồi trên ghế, vẫn một hình thế đen.”
Bà ta kéo cái tà áo bung cao chỗ lưng chừng không, thu ngắn khăn quàng cổ, thuần thục như dụ rắn. Bà chậm rãi mở chiếc khăn trùm mặt. Một vừng trán trắng bạch như màu bột. Đôi mắt khá nhiều lòng đen. Một chiếc mũi cao, dài, thoạt nhìn như khuôn mặt Đức Mẹ.
Đây không phải người đàn bà Kiên đã thấy trong giấc ngủ khuya khoắt. Người ảo tượng kia đen kín cả người. Luôn trùm khăn che mặt. Chỉ rao truyền lời phủ dụ: “Về đi. Tìm quê đi. Con gái em sắp đào mộ em, và mang xương em rời khỏi quê nhà này…”
Những lúc như thế, thường là trong giấc ngủ, sau lời mơ hồ nhắc nhở, lão Kiên bắt đầu rơi tự do, có khi từ một đỉnh núi, khi từ lưng chừng mây cao, nhưng tốc độ rất nhanh, không kịp thở, và lão rớt chết giấc trên một nền đất máu me. Tỉnh giấc, Kiên hiểu là ác mộng.
Dần dà ác mộng là của riêng mình, là bạn lữ, là bệnh, là thường trực cái bóng đen lơ lửng, to lớn. Nó huyễn hoặc. Nó lẫn pha giữa cái thực và ảo giác. Nỗi đau nhức không rời trên sân khấu tồn tại. Lão phải thường trực đánh vật với ranh giới thực, mộng. Phải khó khăn để nhận mặt chân hư. Làm sao lão có thể tự khấu trừ những trò hư ảo tàn phá, ăn sâu át-xít vào những tháng năm xương máu có thực. Khấu hao xong những trò vong mạng phung phí, đời lão chẳng còn gì. Một cục cứt trôi sông. Mà con sông lịch sử chẳng hiền hòa chi. Nó đánh tan tác không còn một-đơn-vị-cứt-nào-được-riêng-cục-hòn. Tất cả hòa thành bãi rộng bùn hôi. Tăm tắp. Tất cả là một mênh mông hư huyễn.
Nhưng trên cái bãi lầy vĩ đại, có bọn người duy nhất ngụy tín là sẽ vĩnh cửu tồn lưu. Cỏ không xanh ra màu xanh. Bèo không đủ nước sạch sông trong để trôi lung phận bèo. Chỉ côn trùng, ễnh ương, nhái cóc trên cái thảm sử lịch tồn vinh ấy. Cái xứ Toàn-Chuồng. Không nền tảng để bám rễ làm sao có đại thụ. Một xã tắc xiêu ngã. Nó rất phù hợp với những Sắp-tắt-tà-huy. Là nơi trăng không mặt nước đổ vàng. Nó tối cái u minh hiểm ác, không dung chứa giấc mơ đẹp nào.
Lão Kiên nghe mùi cà phê đắng trong sớm lạnh. Tàu chạy ra khỏi một cái hầm nhỏ trong núi. Một cánh đồng xanh hiện ra trong nắng sớm. Xóm làng xa xa. Trên đồng ruộng đã rải rác nông phu. Con đường cái quan song hành với đường tàu xuyên Việt từng tốp xe tải chạy nối đuôi nhau.
Miền Trung bộ có một địa hình khá đặc biệt. Giải Trường Sơn bắc nam mấy trăm dặm chạy song song cặp bờ biển đông. Nó cong cong cái sống lưng chữ S. Khom khom cái còng nặng gánh nghèo khổ, phân ly và nỗi nhớ. Nhiều nơi núi khinh bạc, ngang tàng đâm ra biển, tạo nên những đèo cao hun hút, hiểm trở. Đường tàu có nơi sát rạt đường xe. Người trên tàu có thể vẫy tay chào, nhìn rõ mặt người đang ngồi trong xe bon bon. Xa hơn một chút thôi, qua một rặng dừa rậm bóng, là biển xanh vỗ sóng trắng vào bờ. Những bình nguyên hẹp, khiêm tốn khổ đau này Huyền Trân đã đi qua, Nguyễn Hoàng mở nước phương Nam, Nguyễn Huệ đã vượt dặm ngàn đến Thăng Long. Ca dao đã đi qua. Và máu xương gởi lại.
“Tôi mua cái lọ gốm này từ chùa Pháp Giao. Nhờ anh bạn họa sĩ vẽ thêm cái hình cái xương cụt cho đặc biệt riêng tôi. Tôi không muốn linh hồn mình đồng phục, lẫn lộn trong hàng. Anh xem, nguời họa sĩ có tài tình không nào? Thọat nhìn cái hình vẽ xương cụt y chang một cái xương thật gắn lên mặt lọ. Nó gồ hẳn ra đây này…”
Bóng quay lọ, phía có hình họa một chiếc xương cụt màu đen qua phía Kiên để ông nhìn được rõ.
“Tương truyền trong dân gian đốt xương này có một liên hệ khá bí ẩn với danh dự người đàn bà. Nó là một thử thách, một chờ đợi dài dặt cho chứng nghiệm một sự thực, về sau cái chết. Khi cái xương đã tàn, đen trong huyệt mộ, chính là lúc nó làm chiếc gương soi cho lòng chung thủy.”
“Con gái tôi năm hôm nữa sẽ hốt cốt tôi. Trên đồi Phù An. Nó không hề biết mặt cha. Cha đã bỏ đi khi con chưa chào đời. Con gái tôi xinh đẹp lắm. Thướ ấy chồng tôi đoan quyết là tôi đã ngoại tình. Đứa con bốn tháng trong bụng vợ không là con của mình. Là con thằng Thuồng. Chồng tôi đã bỏ xứ ra đi. Rồi nhân danh cái lý tưởng chính trị riêng ông, để chính danh cho hoàn cảnh biệt xứ. Theo ý chồng tôi không nỗi nhục nào bằng cái nhục bị vợ cắm sừng.”
Bóng lại thở dài than van: “Đã mấy chục năm qua…”
Kiên cũng có một nghi hoặc như thế đã mấy mươi năm. Cuộc độc thoại ẩn mật đã rêu kín, ẩm mốc, luống sâu trong mưa nắng. Nó giờ đây mở ngỏ để Kiên dứt khoát bước khỏi cái liếp cửa, bỏ lại con sông Thu.
Quả thực Kiên đã ngụy trang, đã trung hòa nỗi nhục riêng tư, vợ ngoại tình, vào một nỗi nhục lớn hơn. Bỏ một con sâu nhỏ vào cái môi trường nghìn triệu sâu bọ; rồi phong kín, tô vẽ và tôn xưng nhãn hiệu. Cái lý tưởng nào vĩ đại đủ che bóng, hào nhoáng cho lớp sâu trùng đen. Cái lăng tẩm tổ tiên vua chúa nào rực hào quang trang nghiêm để cứu chữa, rửa sạch ung thư cho những thế hệ lừa. Những thế hệ lừa đã biến thành sói, cực hung hăng trong hoang mạc đồng loại Toàn-Chuồng.
Hôm nay trên mặt đất đi qua đã thừa bóng mặt trời để nhìn lại, nhận ra. Kiên thở dài, buông một lời tự hối với Bóng:
“Hồi ây khác. Bây giờ có thể chồng bà đã hiểu ra là có những nỗi nhục gấp nghìn lần cái nhục bị vợ cắm sừng. Con mụ vợ đưa đồ cho thằng khác xài là chuyện nhỏ. Cả một dân tộc này bị lôi lên giường gian dâm với những tên đồ tể, bị hôn mê bởi những lời dụ dỗ, bị chủ thuyết hôn ám ma đưa lối quỷ dẫn đường. Nhục thời thế chẳng hạn. Nhục mình hát ru, tự lừa phỉnh để tiêu pha vô nghĩa cả sinh mệnh riêng mình chẳng hạn.”
“Đó là nỗi nhục phù điêu thân phận của riêng các anh. Cái nhục của chúng tôi là âm thầm, tìềm ẩn. Nhục ở dạng chỉ là “ta – nghi – ngờ.” Mà anh à, sao các anh mãi lẫn quẫn trong nhục vinh?”
Bóng bê chiếc lọ có hình xương cụt, quấn ngoài một lớp lụa dày rồi cẩn trọng đặt lọ vào một cái hòm nhỏ bằng gỗ quý sơn màu huyết dụ. Trên nắp hộp có hình một cái xương giống hệt xương trên chiếc lọ.
Tàu hú còi. Lại qua một cây cầu dài chừng hơn một cây số. Con sông rộng mênh mông vào mùa nước cạn đã bày ra giữa dòng chảy những cồn bãi rộng. Cát vàng và màu xanh của những vùng dân chài rỗi việc trồng khoai đậu qua mùa. Những chòi lá lác đác xa. Mây đùn đen đằng đông.
Bóng lấy một cái khăn lớn trải ra, gói cái hộp sẽ chứa đựng hài cốt chính mình. Lão Kiên không ăn điểm tâm mà gọi thêm một cốc cà phê. Dạ dày của lão đã quen ướp mỗi ngày dăm bảy ly đen đen, phổi vài ba chục điếu thuốc lá. Lão thường ví von: “Ta un khói tâm linh.”
“Anh có nghe dưới lườn tàu đang xuôi ngược bắc nam này, con đường sắt nói gì không?”
Kiên trả lời với khoảng trống, con đường này có hơn trăm tuổi, đã lắm tâm sự. Nhưng tôi hỏi bà ai là kẻ đọc được tâm sự của sắt thép.
“Có đấy anh ạ. Là một kẻ đang chết trên dương gian và đang sống trong âm phủ, tôi hiểu được nỗi lòng con đường tàu nối xứ sở này. Tôi có thể nghe được đất đá nói gì. Hiểu cả súc vật quanh đây buồn gì. Cỏ cây đau gì. Vì sao anh biết không? Vì tiến trình của các anh, vì con đường Bắc Nam này của các anh đang chạy trong một Cõi địa ngục.”
“Sài gòn quê hương thứ hai của anh đang là xứ sở của Rắn. Nơi chôn nhau cắt rốn của anh thuở xưa nay cũng chẳng còn đâu. Con sông Thu đã đổi dòng chảy. Không phải Lửa thiêu, mà là Nước tàn phá. Mà Lời lạc lối. Sóng phù du đã xóa tan làng Lạc long quê cũ của anh rồi. Nó mang đất cát sông Thu bên này bồi sang bên kia bờ. Quê nhà anh mất dấu bên bờ này. Để hóa hành bãi bồi bùn đen cát vàng bên bờ kia. Ngày mai về tới làng cũ, anh sẽ tận tuờng. Anh đang trên một quê nhà luôn mất bóng…”
“Con gái yêu dấu khi bốc mộ Mẹ không biết có đủ thân ái nhìn rõ xuống huyệt cũ? Có đủ bình tĩnh sắp đặt xương cốt Mẹ cho đúng vị trí hình hài? Có cẩn thận xem còn sót cái xương nào trong hộc mộ hay không? Rồi chúng sẽ bê mớ xương tàn tôi ra đi. Cũng đành…”
Trời nắng cao. Mây. Núi. Và người. Trong đầy mặt trời là sóng biển.
Kiên về tới quê nhà, sau mấy mươi năm, đã non một ngày không thấy ai là người quen biết. Có thể bọn trẻ lớn lên, không hề biết ông là ai. Có thể nhìn qua đám trẻ ông không rõ trong đó đứa nào là cháu chắt của mình. Đường thôn dã, xe honda chạy càn lướt, phịt khói, lấn lề. Bức tranh quê trước mặt không phải đã khác đi, mà hoàn toàn bị xóa nhòa.
Ngã ba Trạm xưa kia chỉ dăm mái lá bây giờ là một khu thị trấn với một cái bến xe to rộng, đường phố nhà đúc, cửa hàng tiệm ăn. Cách nói năng ăn bận xử sự, cách vội vã tranh giựt, nóng sốt và bóng loáng. Nó là cái khuôn đúc của một góc nhỏ Sài gòn. Kiên đứng yên, thấy mình bốc khói mau chóng trong một ngã ba quê hóa cuồng.
Cách ngã Ba Trạm xưa kia chừng cây số có một ngọn đồi, chân đồi có một hồ nước rộng, mùa mưa hồ rộng như một căn biển đối với Kiên tuổi thơ. Bây giờ ngập nhà cửa dân cư. Ngọn đồi ấy sao bé tẹo tèo teo như một cái gò cỏ xanh trên trang giấy vẽ. Nó chìm trong tiếng đời nhấp nhô, vì Kiên đã đi quá nhiều, đã ngủ trong cái cao ngất của núi già, đã từng ngồi trong một chiếc thuyền bị bão đánh mất phương hướng, tay sờ được thần chết chỗ bọt sóng trùng khơi. Những nỗi đời dài dặt to lớn kia đã gói gọn cái lớn lao mang tính huyền ảo tuổi thơ trong một viên kẹo nhét túi.
Trong viên kẹo nhét túi giang hồ ấy, có một đêm Kiên hai mươi dụ được con Nghía mười tám ra bờ hồ ngã ba Trạm ngồi chơi. Trăng trải ngời ngời. Bờ cỏ ướt. Trải tấm ni lông nhỏ ngồi chung. Tiếng gió tiếng dế, ngọn đèn xóm người xa ngái. Mái tóc gái con Nghía thoáng mồ hôi quê làm Kiên ngây ngất. Nhưng ngồi mãi đêm vắng nhiều sao trời, Kiên chẳng biết làm gì con Nghía. Chỉ lúng túng nói vẩn vơ. Một lúc con này bạo, cầm bàn tay Kiên đặt ngay lên ngực mình. Một khuôn ngực to bự, chắc như cái lốp xe căng. Từ đó Kiên trai trẻ biết bóp vú là gì. Một thằng Kiên hiền dại như thế bây giờ thành lão Kiên hóa ma tinh.
Rồi con Nghía có bầu.
Một phần hương quê nay không hề còn trước mặt. Chỉ sau lưng tháng ngày một bản đồ quá khứ. Nó Vô hình? Hay chí mạng Hóa hình trong đầu thai kiếp mới?
– Quái, ta nhớ chỗ từ mép đường này phải đi hơn cây số, qua những vườn tược, cái đình làng, mấy đám thổ ngơi mùa xanh lá khoai luống bắp, rồi mới tới bờ sông. Sao bây giờ nước sông vỗ ngay mép đường này. Vậy nương khoai đình làng đụn rơm khói chiều nay trôi về đâu. Lão Kiên than thở.
Người lái xe ôm trai trẻ nhìn cái bờ sông bị nước chảy xiếc khoét lõm, bờ đất thẳng đứng hiểm trở, như một lưỡi dao trời dựng, có độ cao hơn chục mét tính từ mặt nuớc sông, cậu ta trả lời:
– Cháu có biết mô tê gì đâu. Cháu từ bắc vô nam sau bảy lăm mà. Tới đây đã thấy trời nước vầy rồi. Chỗ vực sông này mùa hè năm ngoái có bốn em học sinh chết đuối. Hè năm nay lại ba đứa. Có ma đấy. Luôn chết chùm một lần một lúc.
Bọn họ dừng xe trên một khoảng đất rộng nhiều bóng mát, ngay bờ sông. Gió trống không, lồng lộng. Sông hôm nay, bị nước phá bờ, nên rộng gấp đôi dòng sông xưa. Giữa dòng thuyền ngược xuôi. Thuyền lớn hơn, sức chạy mạnh hơn. Những con đò nhỏ đã có máy đuôi tôm nổ vang phì phạch băng nuớc. Về phía biển một chiếc cầu mới, dài gấp đôi chiếc cầu cũ.
Màu nắng trưa xa ngàn sương khói. Một cây đa nhoài ra vòm nước. Chùm rễ to lớn tua tủa như râu phù thủy buông thòng từ cành lá sum sê. Ở đó bỗng xuất hiện mờ thoáng một người đàn bà trong trang phục màu đen. Bà phảng phất như mây núi sớm Kiên đã thấy. Như cái dáng xa vắng và phiền muộn giới thiệu cái lọ xương cụt. Như cái bóng lênh đênh trong giấc ngủ hằng đêm lão Kiên rơi rụng.
Người đàn bà đen bước ra khỏi bóng râu đa. Sóng vỗ dưới thấp những mảng đất xám pha bùn. Bóng tiến đến chỗ lão Kiên đang ngồi thẫn thờ khói thuốc bay đầu môi. Bây giờ lão nghe rõ tiếng gió, tiếng sóng sông, tiếng đò máy xa xa. Hàng cây con đường nhựa trưa như bốc khói trắng, dẫn về hướng núi. “Con đường này dẫn về vùng tháp Chàm Mỹ Sơn đây. Tôi có một tuổi nhỏ với rêu và cỏ hoang, với những đỉnh tháp lá xanh thưa và chim mùa đông. Những cơn mưa hoang mị cùng những tiếng vang động mơ hồ không thể định hướng từ dĩ vãng Chàm. Có một lần tôi thấy xác người và máu giữa những khe đá. Những bầy dơi thiêng. Và những vỗ cánh trong không, khi chiều xám…”
Vẫn khuôn mặt trắng màu bột, thân nhẹ như trôi, bà ta một làn khói trên sông trưa. Bóng hỏi Lão Kiên:
Người Bóng chỉ tay qua bên kia, bờ phía nam.
Kiên dõi mắt qua bên kia bờ phương Nam, chếch về hướng biển đông. Một vùng cồn đất mới, xanh biếc màu cây cùng sương khói, những bãi dài cát pha đất màu thoai thoải. Lác đác những mái chòi. Chưa thấy xóm làng nhà cửa sầm uất. Hậu thân của Lạc Long là cồn bãi kia ư?
Vị quan khá từng trải, lại thông minh. Quan quan sát hiện trường. Lại nghe sức gió nhẹ. Hướng gió là hướng từ đất liền ra giữa dòng sông. Mùi thối nếu lan tỏa cũng chẳng bao dặm xa vào phía xóm làng, nghĩa là không ảnh hưởng gì vào phần đất cũ của dân có bãi bồi. Do đó đại diện triều đình, quan xử thế này:
“Mùi thối từ thây người trên bãi bồi bay tới đâu thì đất đó thuộc Phù ly, tức dân làng bị sông Thu xóa đất.”
“Thiên đạo năm ấy cực ác. Sau khi có lệnh quan rành rành, gió bất ngờ đổi hướng. Giống như Nguyễn Huệ vào Thăng long nhờ gió thổi khói ngược chiều, trả khí độc do Tôn sĩ Nghị đốt về lại cho Nghị. Nhưng đó là gió thuận lòng trời muốn cho muôn dân thoát ngục. Đằng này trời ác, muốn cho muôn dân lâm nạn.
Khi quan triều đình vừa rời khỏi bãi bồi, tức thì gió trời không thổi thuận chiều theo mùa, từ nam ra bắc, nghĩa là từ bờ nam ra sông nước giữa dòng như muôn năm thổi. Mà trời bắt gió trở ngược từ Bắc vô Nam. Nghĩa là đưa cái mùi thối tha từ sông nuớc bìa làng, chỗ tranh chấp máu me thây người, vào sâu làng xóm phương Nam. Làm cho thối đình làng, thối miếu thờ nhà cửa. Thồi cả đường đi sỏi đá, khóm tre bụi trúc.
Tắm xong cho một em bé, ngửi nó lại nghe thấy mùi tử thi nơi đứa trẻ sơ sinh. Đốt nhang trầm cúng vái tổ tiên đã nghe ra ngay mùi tử khí trong hương trầm nghi ngút chỗ bàn hương án. Làm như thối từ tiên tổ thối ra. Gái trai xinh tươi thề non hẹn biển yêu thương nhau, là giữa hai làn môi chí tình đã có ngay mùi thồi tha chết chóc oan khiên đâm chém.
Trên bãi chiến trường dành đất tanh hôi, càng lúc gió càng mạnh hơn. Reo rẻo. Từ bờ Bắc vào xóm làng phương Nam. Ra đầu ngõ thấy xác người. Đêm nằm đầy ác mộng. Tỉnh giấc là tứ phương thối hoắc. Dân bờ Nam hoảng loạn bỏ làng xóm miếu mộ già trẻ nhất tề bỏ xứ mà đi. Tre trúc có hồn mà không có đôi chân, đâu thể ra đi, đành đau đành úa. Những sinh linh, hồn phách và cội nguồn đã lỡ cắm rễ sâu trong Mẹ. Đành ở lại thì đành tan, chịu gục.”
Tương truyền, sau khi dân bờ Nam bỏ chạy, dân bờ Bắc được nhiều vùng đất mới, đã lập Lăng thờ quan. Là Người đã định danh lịch sử, đã tân lập địa giới mới, thông qua mùi tử khí, và xác người ngập ngụa.
Nhưng rõ ràng Lão Kiên đang dõi mắt nhìn cái bãi lầy tăm tắp kia. Cây đa trên sông quê Lạc long rủ bóng trưa một chòm râu ma. Người Đàn bà đen lúc nãy đã tức tốc hóa mây. Con đường nắng nhòa, dẫn về xa kia vùng tháp Chàm Mỹ sơn, như có nếp gãy. Lão chợt nghe một tiếng trống xuân vang vang ở đâu giữa dòng con sông Thu của dĩ vãng đang gầm dữ.
Buổi tối Kiên đến ngã ba Trạm thuê một phòng trọ. Lão nhớ, hai cái vú cứng như núm cao su của Nghía, bờ ao cỏ dại. Nhớ chuyến tàu hỏa thời thuộc địa chạy than, phịt khói hú còi hoét hoét qua ga Kỳ-Lam. Chiếc cầu sắt ốm o như cố khiêng vác con tàu thuộc địa chậm chạp qua một đổi đường. Lão nhớ ngã sông Giao-thủy nước bạc đầu đông. Nhớ chợ Phú Bông 1945 lính Nhật lùn đi lại, đầu đội cái nón vải có hai mảnh vải phủ hai bên tai như tai lừa.
Lão trùng lẫn giữa sự đời có thật với những ảo giác, những bóng hoang xa trong mịt mùng giấc ngủ. Chỗ này đây, đúng rồi, hồi xưa đứng bên cha, đứa bé cao ngang lỗ rốn cha. Mái tóc dúi vào đụng ngay cái hòn giái cha, phải, chỗ này đây, dưới cơn mưa mộng tháng giêng, cha cho ra Phố cổ xem đèn lồng trăng gương. Rồi xuôi sông Trường dọc xứ Quảng vào tận vùng Bến ván. Trảng cát Chu lai như một cái sa mạc trùng khơi vây tuổi nhỏ.
Mười giờ đêm, Kiên ra đầu đường mua một chai rượu trắng hiệu Thăng long, mấy cái nem Vĩnh điện, một đèn lồng Phố cổ Hội an. Lão tắt ngọn néon, thắp đèn lồng. Để cửa mở, nhìn ra con đường cái quan xe giăng hàng ra bắc về nam, lão ngồi uống rượu, nhấm nháp bóng mờ một mình.
Đã bảo, từ khi biết Nhìn-Lại, lão Kiên có cái khả năng khốn nạn là chỉ ngồi trò chuyện với mình, cụng ly mỗi mình. Tự ăn mòn mình. Ngồi cô ngủ độc. Đem ruột gan phèo phổi mình ra nhâm nhi. Bày hai cái chén. Rót rượu đầy hai ly. Kiên nâng ly. Ngó ra khoảng trống vắng chỗ bóng cây mờ ánh đèn đường cửa vào, lão mời:
– Có linh thiêng người hãy về uống với tôi một ly…nào…cạn ly.”
Nói xong, lão chờ một chút theo thủ tục mời rượu, rồi ngước mặt, tay nâng ly rượu. Nốc cạn. Ánh đèn chỗ hành lang không đủ sáng, soi mờ mờ bóng cây góc vườn. Bên ngoài cổng nhà trọ có một đám vô gia cư, tàn tật, già nua, trải chiếu chăn ngủ tạm lề đường. Bóng đen lá và ánh vàng chen nhau lay động trên nền sân.
Bỗng, có âm vang trong bóng hoa nhạt nhòa:
“Chiều mai con gái chúng ta về. Sáng ngày mốt mời anh lên đồi Phù An nhìn xuơng cốt. Mùa này thanh minh, nhiều người đi hương khói tổ tiên. Muốn nhận ra con và em, và mộ em, anh hãy tới chỗ cái mộ không có bia đá, chỉ một cụm bông trang nở hoa đỏ. Con gái anh bận áo dài màu hoa cà, quần trắng. Nó không hề biết mặt cha nó đâu.”
– Uống cùng ta ly rượu. Rồi hãy nói. Ta sẽ nhớ lời căn dặn mà.
“Nước xóm Đục toàn bộ nhiễm chất độc của bọn đào vàng. Bờ mê cỏ úa. Sông không cá. Núi non trơ cành. Uống phải nước là chết người.”
Kiên nghi hoặc, than van với Bóng: Nghe rằng lòng đất nhiễm thạch tín thì xác người trong mộ khó thể tiêu tan. Làm sao xương nàng khô ráo mà hốt hài cốt? Mà tro xương ra nghìn dặm?
2
Đứng trên đồi Phù An, nhìn xa xa thấy rõ nhà thờ An Sơn. Lão Kiên thấy thập tự giá sao nghiêng nghiêng, như một vạch chéo xóa sổ niềm tin trên bầu trời. Hơn nửa thế kỷ trước trước Cha Xứ An Sơn làm đơn xin kháng chiến tình nguyện đốt nhà thờ. Cha bảo con chiên ngoan: “Từ nay hãy nhìn chúa trong Đỏ, và Lửa.”
Tiêu thổ kháng chiến là thượng sách. Cha đẻ lão Kiên chất một đống rơm trong nhà mình, tình nguyện nhiệt liệt đốt căn nhà ngói cổ đã bốn đời cha ông từng cư ngụ. Làng xóm chất rơm cỏ khô chỗ bàn thờ. Chất lửa thường trực trong lòng dạ. Quân đội Pháp không tiến quân nhanh được, phải dừng bên kia bờ cầu Bà Rén bị phá hủy. Ánh hỏa châu sáng rực một phía trời Vân Ly.
Lão Kiên ngơ ngác, sườn đồi man man mộ chí. Nắng vàng óng trên lưng dốc mòn. Người đi thanh minh không nhiều như xưa. Lão đi tìm ngôi mộ có bông trang đỏ. Có cô gái bận áo dài màu hoa cà, quần trắng, bên cạnh một nhà sư. Có cái lọ mang hình bóng xương cụt…Bóng ơi hãy dẫn đường ta đi…
Rồi lão cũng đến đúng nơi chỉ dẫn. Trên nền đất màu vàng sậm, trải một tấm ni lông, một mớ đất bới lên từ mộ. Một nhà sư đọc kinh. Một cái bình có hình chiếc xương cụt người đàn bà trên chuyến tàu đêm đặt ở đàng đầu mộ.
Lúc Kiên đến, người ta đã đào tới nắp mộ. Một lớp ván cũ bày ra. Hai người thợ cẩn thận mở tấm ván thiên chưa rã mục trên quan tài. Mọi người kinh hoàng vì hình hài người đàn bà nằm trong áo quan vừa mở nắp, mấy mươi năm vẫn còn nguyên hình hài. Như thịt da không rã tan. Như áo mầu quàng liệm chưa phai. Như máu còn âm thầm cơ nguyên. Như son phấn rực rỡ một khuôn mặt tươi tắn, da dẻ hồng hào. Như mấy đóa hoa cuối cùng ném xuống hãy còn nguyên màu.
Nhưng chỉ thoáng chốc, chỉ mấy giây đồng hồ, hình hài như còn sự sống của xác xương trong lòng mộ tan biến ngay. Còn dưới ánh mặt trời nghĩa trang một mớ xương đen. Gió thoảng, như son phấn phù dung. Dân gian cho rằng đó là những “ngôi mộ kết.” Tinh anh, hoặc nỗi oan khiên, hóa hình lưu vang giây phút, khi mộ vừa được bới ra. Chỉ mấy giây đồng hồ thôi; gió, không khí và ánh sáng, sẽ làm phôi pha, tiêu hủy cái dị hậu kia rồi.
Lão Kiên rít một hơi thuốc, yên lặng nhìn. Kão nghe lời vang trong gió: “Anh không nên nói một lời nào dù đau tiếc. Chẳng nên van vái dù một cái nghiêng mình. Hãy nhặt xương đen mà làm gương soi.”
Năm xưa lúc lên đường chỗ ngã ba Trạm, lão Kiên nhớ rõ, Mụ Sành ngăn Kiên lại và nói: “Chuyện thường tình thế gian mà cậu bỏ xứ mà đi là quyền của cậu. Nhưng sau này đào mộ con vợ cậu lên mà không có dấu vết ngoại tình thì cậu phải đội quần cả đàn bà trên thế gian này thôi. Mà cái xương cụt vợ cậu có một cái đốm trắng đó chưa chắc con vợ đã ngoại tình như thế gian đồn đãi. Đừng tin vào những chuyện nhảm nhí nhân gian mà phí hoài tháng năm cho thù hận. Có ngày cậu phải trả giá cho cái lý tưởng đội quần, cái khẳng định mơ hoặc, cái niềm tin mà chỈ khi đào mả quật mồ nghiệm thu mớ xương tàn, đã chưa chắc khẳng định được rằng đáng tin, hay chưa đáng.”
Bỗng, sư áo vàng nói: “Vùng này nhiễm độc. Có những cái xương thạch tín trắng nõn như da dẻ ông Đờ Gôn.”
Sư tưới một một mớ rượu trắng, mùi rượu thơm, lên chỗ tro tàn của lá sớ tống tiễn vừa đốt. Đồi thanh minh gió ngàn. Có khói bay đưa lên từ vùng rẫy đốt. Đồi nương thanh minh.
Lão Kiên ngây ngất, bất giác quỳ xuống đưa lưỡi liếm chiếc xương đen pha xám vừa nhặt lên từ mộ. Lão thè cái lưỡi không còn đỏ tươi như lưỡi son thời trai trẻ. Mà lưỡi lão xám màu, pha vô vàng đốm trắng bợn bợn như cái nang con mực tươi. Nước miếng lão chảy dòng như miệng đứa trẻ thơ mút kẹo. Miệng non tơ thèm thuồng lúc ngậm vú mẹ. Lão ngậm trọn cái xương tàn héo hon mòn nhỏ vào tận cổ họng, hai má phình ra, cố đưa cái hơi xương, cố nghe tiếng thì thầm của xương vùi lâu trong đất vào tận ruột sâu gan kín… Rồi lão nhả chiếc xương. Nhìn trời xanh khói núi. Thở. Lại nhắm tít hai mắt ngậm xương. Liếm. Mút… Lão nghe da thịt bờ ao chiếu ánh trăng. Nhớ màu nước mùa lúa trổ đòng đòng. Rêu và chim hoang đỉnh tháp. Cái xương cụt lốm đốm thạch tín bỗng đen dần ra. Lão định nhai luôn xương. Nuốt. Nhưng lão muốn kéo dài cái vị tê tê từ não. Cái tâm thức hoang dại hôn mê. Lại mút liếm ngọt ngào xương tàn. Liếm đau. Liếm mãi… Lão tìm sữa Mẹ trong xương…
Chiếc xương cụt xám lốm đốm trắng bây giờ trở nên bóng đen như khối ngọc huyền. Cô gái rùng rợn nhìn Kiên, nói thầm, mà cũng là nói với trời xanh: “Bác ôi, Bác biết hối cải thì nghìn triệu xương oan cũng trở tuyền như ngọc. Chỉ có Bác mới tự rửa oan, và giải được oan cho bao nấm mồ.” Hai người phụ việc xúc đất lấp lại huyệt mộ. Cô gái ngồi chỉnh tề, trải vạt áo dài phía trứớc, nơi có bày hoa quả đồ tế cúng. Cô cúi mặt trên vạt áo hoa cà lạy đất đai nơi an nghỉ của Mẹ, cũng là nơi cuối cùng xương Mẹ ra đi. Cô mở cái hủ sành nhìn xương Mẹ lần nữa. Cô khóc rấm rức.
Họ cùng đi xuống triền đồi. Cô gái ôm cái hòm màu huyết dụ trong có cái lọ hình xương cụt. Lão Kiên lại thấy ở đâu núi xa một bầu trời nắng hanh vàng chen trong mưa bụi. Một đám mây đen trải dài theo núi, giống như đám mây lão đã nhìn thấy lúc ngồi trong con tàu thời gian. Nhưng mây không còn là hình người đàn bà nằm như lão hằng thấy. Kiên van vái thầm: “ Mong Em được giải kiếp.”