- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

Nhất Hạnh và Thập Niên Khai Sáng

 

Mái chùa che chở hồn dân tộc?

Phần lớn các chúa Nguyễn là những người sùng đạo Phật và tôn quý giá trị truyền thống. Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn Nhất Đái , đã hỗ trợ việc phát triển Phật Giáo và xây cất chùa chiền ở phía Nam sông Gianh và nổi tiếng nhất là Thiên Mụ. Điều này cũng không có gì lạ vì các nhà Nho ‘tiến vi sư, thối vi tăng’. Thời loạn lạc, phân tranh Đàng Trong Đàng Ngoài, các võ tướng đóng vai trò quan trọng hơn, các nhà nho không còn tỵ hiềm với các vị sư nữa. Các nhà nho vào chùa, ngồi xuống tương đắc uống một chung trà với sư trụ trì và ngôi chùa tượng trưng cho giá trị tâm linh của đất nước hay nói nôm na, cái Thiện của làng. Đạo Phật lại trở thành đạo đức truyền thống mà các Chúa có thể nương vào tựa để dựng nước.

Đời Chúa và vua Nguyễn, nhiều danh tăng ra sức chấn hưng cách hành trì Phật Giáo, nâng cao phần trí tuệ thay vì để những hình thức cúng bái cầu đảo lấn áp. Hai thiền sư Nguyên Thiều và Liễu Quán không những có công phát triển phái Thiền Lâm Tế mà còn “Việt hoá’ hình thức tu tập. Lâm Tế phản ảnh trung thực truyền thống Đốn Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng ‘Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền’, hầu như huỷ bỏ tu tập hình thức mà chỉ trực tiếp “dĩ tâm ấn tâm”. Lâm Tế là tinh hoa của thái độ quyết liệt ‘Quách Nhiên Vô Thánh’ của Tổ Bồ Để Đạt Ma. Tuy nhiên thái độ triệt để này cũng có nhiền bất cập. Thí dụ trong khi có nhiều Tổ Sư xuất hiện, tuy nhiên đại chúng Phật Tử vẫn mê mê mờ mờ trong tín ngưỡng cúng bái mê tín.

Khi thực dân Pháp đến Việt Nam, một tay cầm súng và tay kia cầm đuốc ‘khai hóa’, triều đình và dân chúng phải đối đầu với hai mặt trận cùng một lúc: quân sự và văn hoá. Các nhà nho đã làm hết sức họ, từ ‘khẳng khái cần vương’ như vua Duy tân, Tôn Thất Thuyết, Phan Dình Phùng đền ‘thung dung tựu nghĩa’, như Hoàng Diệu và Phan Thanh Giản. Khi thấy ‘cái học nhà nho đã hỏng rồi’, một mặt nhà nho phải duy tân như Phan Chu Trinh, mặt khác bạo động một cách vô vọng, không ‘thành công thì thành nhân’ như Phan Bội Châu & Nguyễn Thái Học. Về mặt trận tư tưởng, các nhà nho, các nhà tân học cấp tiến hay cải lương, cho đến cả các trí thức đệ tứ, như Phan Văn Hùm, đều dồn nổ lực ủng hộ tư tưởng truyền thống còn sót lại để đối đầu với chủ trương cải đạo tập thể của thực dân Pháp. Có nhiều nguyên nhân khiến Phật Giáo phải đứng đầu gió trong nhiệm vụ đối đầu trên mặt trận tư tưởng và hai lý do quan trọng nhất là sự sụp đổ của nho giáo tạo ra hố thẳm văn hóa và sự gắn bó của Phật giáo đối với mệnh nước nổi trôi kể từ khi lập quốc..

Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 trở thánh đồng hội đồng thuyền. Nho giáo ở Trung Quốc là nạn nhân của Liên Minh Thất Quốc, trở thanh một nạn nhân đáng thương như nhân vật A Q của Lỗ Tấn. Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cũng hành động vô vọng như các nho gia Việt Nam. Chủ nghĩa Tam Dân nửa nạc nửa mỡ như thuyết Dân Quyền của Phan Chu Trinh. Bấy giờ trí thức Trung Quốc cũng như trí thức Việt Nam sực tỉnh: Phật giáo đời Đường mà các Nho gia bấy lâu nay kèn cựa tranh dành ảnh hưởng có thể là con đê ngăn chặn các tôn giáo lấp ló sau chánh sách ngoai giao bằng tàu chiến và đó là chưa kể con cọp Mác Xít lập ló ở miền Đông. Thái Hư Đại Sư lên tiêng kêu gọi chấn hưng Phật Giáo: Cách mạng giáo lý! Cách mạng giáo chế! Cách mạng giáo sản! Lịch sử Trung Quốc cho thấy những ngưới phá hoại chương trình chấn hưng không ai khác hơn là các nhà sư hủ hoá, đám thấy cúng chuyên môn ma chay và cầu đảo, sợ mất quyền lợi. Lời kêu gọi của Thái Hư được giới nho gia và tăng già Việt Nam hưởng ứng mạnh mẽ. Chính các nhà nho cải cách phát động phong trào chấn hưng Phật giáo, như Hùynh Thúc Kháng, Phan Khôi và cả Phan Chu Trinh. Nhóm đệ tử trong Nam của Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu cũng đồng tình việc chấn hưng Phật giáo như giá trị tâm linh của dân tộc để chống lại sự tấn công ào ạt của văn hóa phương Tây. Mặc dù Cụ Hồ có lúc lẩn trốn trong chùa khi bị mật thám Pháp lùng bắt, một số các nhà Mác Xit chính thống, như Hải Triều, vẫn còn xem Phật giáo là một triết lý trốn đời kiểu Hồn Bướm Mơ Tiên. Ở đâu cũng vậy, có những người bảo hoàng hơn vua, Mác xít hơn Mác xít.

Trong khi phái Nguyên Thiều phát triển mạnh ở Huế và miền trung, các đồ đệ của Liễu Quán vào tận các tỉnh miền Nam như Biên Hoà, Tây Ninh và Hà Tiên. Vào miền Nam, Phật giáo không còn giữ tánh ‘chánh thống’ của Phật giáo, ‘nhập thế’ hơn và phối hợp với tâm chất mộc mạc của người Nam, thành một tôn giáo quyện lẫn với các yếu tố xã hội và chánh trị. Cao Đài miền Đông và nhất là Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây là một biến tướng của Phật Giáo. Sự giản dị tối đa trong nghi lễ, không hình tượng, phái Liễu Quán biến thành Bửu Sơn Kỳ Hương mờ mờ ảo ảo sau bóng Phật Thầy Tây An. Hồ Huệ Tâm Tài, ái nữ của nhà văn Hồ Hữu Tường, cho thấy dấu tích của dòng Liễu Quán trong Phật Giáo Hòa Hảo.

Tuy vẫn có những Thiền Sư chứng ngộ trong dòng Nguyên Thiều và Liễu Quán, tuy nhiên vì ‘giáo ngoại biệt truyền’ nên quần chúng chỉ còn theo nghi thức tịnh độ, cầu đảo. Đối với triều đình và chánh phủ Bảo hộ, Phật giáo chỉ còn được dùng như đồ trang điểm cho ông hoàng bà chúa vào các dịp lễ lạc. Quần chúng bình dân sùng bái Phật giáo như hình thức tín ngưỡng, mê tín nhiều hơn chánh tín. Các nghi lễ đầy mê tín trong khói hương nghi ngút khiến Phật giáo không xứng đáng trong vai trò nên tảng tâm linh của đất nước và dân tộc. Hàng ngũ trí thức được đào tạo trong giáo dục mới tại các đại học Sài Gòn, Huế và Đà Lạt, dù nặng lòng với truyền thống của dân tộc, cũng không còn kỳ vọng vào Phật Giáo, dù mất ngàn năm đã từng ‘che chở hồn dân tộc’.

Thập niên khai sáng

Sở dĩ có lời giới thiệu dài dòng cho văn học thập niên 60 để thấy sự quan trọng của sự bùng vỡ ý thức của thế hệ trí thức trẻ, nhất là trí thức Phật tử, đối với việc tái khám phá những giá trị tinh thần truyển thống mà trước đó họ không muốn nhận, hay nghi ngờ không đủ yếu tố tồn tại trong thời đại duy lý. Một phần vì ‘lương sư’ thì ít, ‘bất lương sư’ thì nhiều, thành phần tăng già ẩn cư trong thâm sơn, tiếp tục thực hành phương pháp ‘tâm truyền tâm’. Tại miền Nam các thầy cúng Cổ Sơn Môn hay Lục Hoà Tăng chi quanh quần trong sinh hoạt ma chay, cầu đảo biến Phật giáo thành tôn giáo của người chết. Một phần khác, các thành phần thân thực dân cố gắng cổ động sứ mệnh giáo rắc văn minh, công kích sở đoản các tam giáo như Nho giáo (Tồng Nho) từ chương, bế quan toả cảng gây tình trạng lạc hậu, xem Phật giáo là tôn giáo ma quỷ.

Thanh niên nghi ngờ giá trị của giá trị truyền thống, một số chưa tiêu hóa triết lý Tây phương, lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, như những cô hồn vất vưỡng thiếu cơ sở tâm linh nương dựa.

Đầu thế kỷ chi cò một trường đại học duy nhất ở Hà Nội. Sau năm 1956 có thêm đại học Huế và đại học Thiên chúa ở Đà Lạt.

Việc chánh phủ Ngô Đình Diệm bị quân nhân lật đổ là một động đất về chánh trị. Năm 1956 các nhóm võ trang như Bình Xuyên và các giáo phái như Cao Đài và Hòa Hảo bị đàn áp nặng nề. Hộ Pháp Phạm Công Tắc phải lưu vong trên Cao Miên, Ba Cụt bị xử tử. Chế độ tưởng như vững vàng không có gì lay chuyển được, nhất là có cả 17 ngàn cố vấn quân sự Mỹ đứng sau lưng làm bùa bảo vệ. Nho giáo chỉ còn thu hẹp trong hội Khổng Học, năm khi mười họa mới tổ chức một buổi diễn thuyết.

Việc đàn áp thô bạo các giáo phái ở miền Nam là lời cảnh cáo nghiêm khắc cho Phật giáo. Trừ ở miền Trung, cái nôi của Phật giáo, sinh hoạt ‘Phật sự’ èo uột. Các bài nghiên cứu trong các tập san của hội Phật Học, Liên Hoa hay Từ Quang ít độc giả. Chế độ đưa một chủ thuyết Nhân Vị thay thế vào. Trừ các tín đồ, it ai biết về lịch sử tín lý của giáo hội Thiên Chúa vào thời trung cổ, như toà án dị giáo Spanish Inquisition. Ít có người biết đến cuộc cách mạng Pháp 1789 đã mở đầu cho thế kỷ khai sáng ở Âu Châu và sự ‘nổi loạn’ của Tin Lành đối với giáo quyền La Mã. Không mấy ai biết đến tên Calvin hay Martin Luther. Nếu vô tình hay cố ý phiêu lưu vào các lãnh vực này, chế độ không ngần ngại dùng những biện pháp mạnh để trừng trị, như trường hợp hai học giả Nguyến Hiến Lê và Thiên Giang đã dám nhắc tới thuyết tiến hóa của Darwin. Ai cũng phải hát ‘xin thượng đế ban phép lành cho người’ dù có tin hay không tin. Giấc mộng cải đạo tập thể mà thực dân Pháp lao tâm khổ trí thực hiện nhưng vẫn thất bại, lần này có viễn tượng thành công.

Thanh niên và trí thức có gia đình theo đạo Phật nhưng phải nói trớ ra là đạo ‘thờ ông bà’ để tránh trở ngại trong sự nghiệp, thấm thía nỗi bơ vơ về mặt tâm linh. Ngó qua trời Tây họ thấy toàn những triết lý hấp dẫn nhưng xa lạ: Plato, Aquinas, Descartes, hiện tượng luận, trí thức luận, hiện sinh, cám ơn các trí thức trẻ đi học ở Pháp về, phần lớn quy tụ ở Đại Học Huế. Tập san Đại Học Huế đã mở cho họ một cánh cửa nhìn ra thế giới tư tưởng bên ngoài.

Ngó về quê nhà, cửa ngõ đìu hiu, nghi ngút khói hương trong lễ nghi cúng bái mà họ biết là họ không thể chấp nhận được trong thời đại khoa học, dù họ biết là tự bản chất, Nho-Lão-Phật đã cung cấp nền tảng tâm linh cho dân tộc, là triết lý nhân bản của hai nền văn hóa cổ nhất của Đông phương. Đó là hố thẵm của tư tưởng mà thanh niên của thập niên 60 và 70 trải qua. Mối ngờ vực vào câu thơ của Thiền Sư Mãn Giác ám ảnh họ:

Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tiên.

Hành Trình Khai Sáng

Biến cố tháng 11 năm 1963 không phải chỉ là sự thay đổi chánh quyền. Đối với thanh niên có gia đình theo đạo ‘thờ Ông Bà’ đó là cuộc cách mạng văn hóa, bắt đầu thời kỳ khai sáng. Phật giáo không còn là mớ tín ngưỡng lỗi thời và mê tín nữa, mà là một lực lượng quần chúng có khả năng làm sụp đổ một chế độ. Lần đầu tiên trong nhiều năm, các thanh niên tân học hãnh diện xác nhận mình theo đạo Phật. Cách mạng 63 biến Phật Giáo thành một tôn giáo bình đẳng với Thiên Chuá Giáo về mặt luật pháp. Người cùng tử trong kinh Pháp Hoa đã tìm thấy viên ngọc quý trong nhà và các sinh hoạt văn nghệ và tư tưởng trong thập niên này đã cho thấy tại sao dân tộc chọn Phật giáo là nền tảng tâm linh trong mấy ngàn năm qua. Một trong số các nhà sư ‘đợt sóng mới’ đã khởi đầu phong trào giúp đạo Phật hiện đại hóa và đi vào cuộc đời. Đạo Phật không còn là đạo của người chết, ma chay cầu đảo mê tín mà là một triết lý từ bi và trí tuệ cho người sống: nhà sư đợt sóng mới đó là Nhất Hạnh.

Trong khi cuộc tranh đấu 1963 bùng nổ, Nhất Hạnh đang nghiên cứu tại đại học Columbia. Nhất Hạnh đóng góp những gì có thể làm được cho cuộc tranh đấu: tuyệt thực, phát tài liệu về việc Phật giáo bị đàn áp cho các đại biểu tại Liên Hiệp Quốc và vận động cho đại hội đồng LHQ chấp nhận một phái đoàn sang điều tra tại chỗ. Khi chánh quyền bị quân đội cách mạng lật đổ, Nhất Hạnh được đại học Columbia đề nghị ông thành lập phân ban về Đông Nam Á Học. Tuy nhiên ông nhận được một điện tín khẩn từ linh hồn của cuộc tranh đấu: Trí Quang. Trí Quang viết vắn tắt: “Tôi đã già và bảo thủ, e rằng không cáng đáng nổi trách nhiệm mới. Xin trở về quê nhà giúp đỡ chúng tôi”.

Nhất Hạnh ngập ngừng vì trong thời gian qua, các nhà lãnh đạo đã từ chối những đề nghị ‘hiện đại hóa’ của các tăng ni trẻ. Nhất Hạnh ra tập san Sen Hái Đầu Mùa, quy tụ các tăng ni trẻ đề nghị một số cải cách. Nhất Hạnh cũng lên Bảo Lộc lập ra Phương Bối Am làm quê hương tâm linh của những tăng ni cấp tiến (ngày xưa khi chưa có giấy, lá Bối được dùng để ghi lại kinh- Bối diệp viết chân kinh). Phương Bối Am đã nuôi dưỡng một vài nhân vật chủ chốt trong phong trào hiện đại hóa, ngoài Nhất Hạnh còn có thầy Thanh Từ, Lý Đại Nguyên (chủ bút tờ Sóng Thần sau này), thầy Thanh Tuệ (nhà xuát bản Lá Bối và sau đó An Tiêm), Từ Mẫn (hiện là cư sĩ Võ Thắng Tiết-nhà xuất bản Lá Bối) Thanh Văn (Giám Đốc trường Thanh Niên Xã Hội đầu tiên), các thầy Thanh Toàn, Đường Bổn. Một nhóm sinh viên là đệ tử đấu tiên của Thầy, trong đó có chị Cao Ngọc Phượng, hiên là sư cô Chân Không.

Tuy nhiên cuối cùng Nhất Hạnh trở về vì hai lý do: các nhà lãnh đạo có lẽ đã thấy nhu cầu chấn hưng Phật Giáo để đóng góp vào một hoàn cảnh chính trị và xã hội mới; tuy chiến tranh vẫn còn hạn chế ở những vùng xa xôi, tuy nhiên sự thành lập của MTGP và những lời tuyên bố mở rộng chiến tranh của Lyndon B. Johnson và bộ trưởng Quốc Phòng MacNamara, cho thấy chiến tranh sắp sửa leo thang khốc liệt. Dưới mắt Nhất Hạnh, mọi vận động hòa bình phải qua trung gian của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới mong có hiệu quả.

Nhất Hạnh về nước qua ngã Paris (để làm lễ thọ giới cho sư cô Trí Hải) và đặt chân trên quê hương vào ngày 16 tháng 12 năm 1963. Vào tháng 5 năm 1966 Nhất Hạnh theo lệnh của nhà lãnh đạo giáo hội, lại khăn gói lên đường qua Mỹ vận động hòa bình. Nhà sư mảnh khảnh này chỉ lưu lại trong nước chừng 2 năm rưỡi. Thế nhưng trong thời gian ngắn ngủi này, những công trình giáo dục, xã hội và văn hóa do Nhất Hạnh khởi phát bùng phát thành một phong trào sinh hoạt văn hóa Phật Giáo chưa có thời chấn hưng nào có thể so sánh.

Từ năm 1956 đến 1961 Nhất Hạnh đã đăng thơ và truyện trên nhiều tập san Phật giáo, nhưng phần lớn tập san chỉ lưu hành giới hạn, như tờ Phật Giáo Việt Nam và Từ Quang. Khi về nước lần này Nhất Hạnh cùng với các tăng trẻ từ Phương Bối Am ra tờ tuần báo Hải Triều Âm và tập san Giữ Thơm Quê Mẹ. Tờ Hải Triều Âm phát hành mỗi tuần gần 50 ngàn số, con số kỷ lục. Tài hoa của Nhất Hạnh quyến rũ nhiều văn nghệ sĩ Phật tử cũng như không Phật Tử, kể cả Phạm Duy. Độc giả chắc còn trong trường ca Mẹ Việt Nam Phạm Duy có hát “chúng con xin nguyền giữ thơm quê mẹ”. Các bài tâm ca như kẻ thù ta đâu có phải là người, viết theo lá thư của Nhất Hạnh gởi mục sư Martin Luther King “In search the enemy of men”.

Về mặt tư tưởng, với ba tác phẩm Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đạo Phật Ngày Nay và Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Nhất Hạnh đã cho thanh niên và trí thức Phật Tử thấy khía cạnh khác của Phật Giáo. Đó là khía cạnh trí tuệ, ngoài khía cạnh tôn giáo dành cho đại chúng. Đạo Phật không phải chỉ có hình thức cầu đảo cúng bái, không còn là tôn giáo tiêu cực, không phải là tôn giáo tránh đời. Trong một sớm một chiều, thanh niên trí thức nghệ sĩ đua nhau học Thiền, làm thơ thiền, thực tập thiền. Nẻo vào Thiền Học và Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức là hai tác phẩm gối đầu giường của thanh niên sinh viên trong quá trình trở về nguốn, trở vế nền tảng tâm linh của dân tộc. Thanh niên sinh viên công khai hãnh diện tự nhận mình là Phật tử, không còn úp mở nói là ‘đạo ông bà’ như trước.

Ngoài việc phát khởi văn nghệ Phật giáo, Nhất Hạnh còn khởi công thành lập Trường cao Đẵng Phật Học, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh. Trước đó trường Đại Học Văn Khoa chỉ có chứng chỉ Lịch sử Triết Học Đông Phương, trong khi triết lý Tây Phương chiếm một phần lớn chương trình Văn Khoa. Ngay cả các môn Triết Học Đông Phương do các giảng sư Linh Mục đảm nhiệm (Kim Định, Bữu Dưỡng, Thiện Cẩm). Tôi không có ý nói là các linh mục này không đủ khả năng giảng dạy (cả ba Linh mục trên đều là học giả có khả năng) tuy nhiên chỉ muốn nói là chánh quyền đã cổ võ cho lý thuyết Nhân Vị mà ở Tây Phương chỉ là một lý thuyết không mấy người biết tới (ai có biết tên sách của Mounier!).

Đến khi bộ Thiền Luận 3 quyển của Đại sư Suzuki được Trúc Thiên và Tuệ Sĩ dịch ra tiếng Việt, thế hệ thanh niên có gia đình theo đạo Phật biết tên những thiền sư như Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Triệu Châu, Lâm Tế…

Trần Nhân Tôn, Tuệ Trung và bắt đầu hiểu tại sao trong hai ngàn năm Phật Giáo đã là nền tảng tâm linh của dân tộc. Đó là chưa kể đến các triết gia tại Đại Học Vạn Hạnh, quy tụ quanh tập san Tư Tưởng, như Tuệ Sĩ, Ngô Trọng Anh, Chân Pháp, LM Lê Tôn Nghiêm và nhất là Phạm Công Thiện, đã cho trí thức thấy rõ Hố Thẵm Triết Lý Tây Phương và Hoàng Hôn của Những Thần Tượng. Công mở đầu thời khai sáng này trước tiên phải là công của Nhất Hạnh.

Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản đối chiến tranh, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964

Tiếng gọi

Sáng hôm nay

tới đây

chén trà nóng

bãi cỏ xanh
bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước

bàn tay gió

dáng vẫy gọi

một chồi non xanh mướt

nụ hoa nào

hạt sỏi nào

ngọn lá nào

cũng thuyết Pháp Hoa Kinh


Beckoning

This morning’s dawn

And I am here

A cup of steaming tea

A green lawn

Your sudden image

from long ago

Your hands or the wind

beckoning
the shining of the tree’s new bud

flower leaf and pebble

all recite

the Sutra of Lotus

Một trong tập truyện kể lại quá trình xây dựng Phương Bối Am, tựa là Nẽo Về Của Ý, đã quyến rũ nhiều trí thức và nghệ sĩ và có một người xuất gia sau khi đọc tác phẩm này. Bản dịch Fragrant Palm Leaves do nhà xuất bản Parallax xuất bản vào năm 1998, cho thấy quá trình chứng ngộ của Nhất Hạnh, trước khi nhà sư này dấn thân vào cơn gió bụi lịch sử. Đọc xong tôi nhớ đến câu thơ của Thái Hư:

Phồn hoa ngã bất hoài vinh nhục.

Quán Như

bài đã đăng của Quán Như