Năm 2003 Nhà Xuất Bản Văn Học phát hành quyển “HÀN MẶC TỬ – THƠ và ĐỜI” do ông Lữ Huy Nguyên sưu tầm và tuyển chọn, “căn cứ vào các tài liệu của Chế Lan Viên, Quách Tấn, Quỳnh Giao, và Trần thị Huyền Trang”, ở trang 10 có bài thất ngôn bát cú “Cửa Sổ Đêm Khuya”, trích từ “Lệ Thanh Thi Tập”:
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xưa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ rũ
Hòa đàn sẵn có dế bên tường
Bên dưới bài thơ là hơn nửa trang chú thích, nguyên văn:
Bài này có thể đọc 6 cách: xuôi, ngược, bỏ 2 chữ sau đọc xuôi, đọc ngược, bỏ 2 chữ trước đọc xuôi, đọc ngược. Dẫn ra vài cách để làm ví dụ:
Bỏ 2 chữ đầu mỗi dòng thơ, rồi đọc xuôi:
Nguyệt rọi cửa lồng gương
Buồn thêm nỗi vấn vương
Liễu in hồ gợn sóng
Mai thoảng gió đưa hương
Nhớ cảnh tình lai láng
Ngâm thơ rượu bẽ bàng
Yến ngàn dâu ủ rũ
Sẵn có dế bên tường
Hay bỏ 2 chữ cuối mỗi dòng thơ, rồi đọc ngược:
Dế có sẵn đàn hòa
Dâu ngàn yến lại qua
Rượu thơ ngâm bạn vắng
Tình cảnh nhớ người xưa
Gió thoảng mai hờ hững
Hồ in liễu thướt tha
Nỗi thêm buồn cảnh lạ
Cửa rọi nguyệt cười hoa
Độc giả có thể thấy ngay chú thích này là hoàn toàn sai, vì rõ ràng 2 bài ngũ ngôn trên chỉ có thể đọc theo 1 chiều như đã dẫn, chứ không thể theo chiều nào khác nữa: Các chữ cuối của các câu nhất, nhị, tứ, lục, và bát, đọc ngược từ dưới lên, theo chiều từ trái sang phải, cụ thể là các chữ SẴN – YẾN – NHỚ – LIỄU – NGUYỆT (ở bài ngũ ngôn thứ nhất), cũng như các chữ CỬA – NỖI – GIÓ – RƯỢU – DẾ (bài hai), không hề hiệp vận.
Tiếng Việt, với khả năng hy hữu cho phép đảo ngược trật tự các từ trong câu mà vẫn có nghĩa trong một số trường hợp, được vận dụng để tạo nên những văn bản gây ngạc nhiên thú vị, đặc biệt là với thơ vần. Ý tưởng làm ra một bài thơ với 6 cách đọc, như được mô tả trong phần chú thích trên của NXB Văn Học, thật sự là một ý tưởng mới và thách thức, song rất tiếc bài thơ dùng để minh họa nó đã không đạt yêu cầu. Dẫu sao, một ý tưởng (nghệ thuật) như thế không phải để cho chúng ta bỏ mặc cách uổng phí; thực hiện nó cho trọn là điều rất đáng làm, nhất là đối với những kẻ có lòng yêu tiếng Việt. Và, một người bạn của tôi, Pierre Bùi, đã làm nó; anh này đã viết 3 bài Bát Cú 6-trong-1, cho phép đọc 6 cách, chính xác như đã mô tả. Tôi mạn phép dẫn dưới đây:
Bài 1:
MÙA SAY
Qua ngày gió mãi gọi hồn ơi
Biết có ai tìm lại hỏi ai
Loe nắng ngõ hồng phơi lá rụng
Bạt mưa thềm trắng giãi sương trôi
Xa trời đỏ héo chờ năm tháng
Vắng cảnh vàng phai đợi phút giây
Thơ thẩn ngó hoài ta cửa trước
Mùa sang tỏa lạnh khói non ngoài
Bài 2:
LẶNG VẮNG
Đêm về ngả bóng đợi kia rồi
Mặc những đời rong ruổi nổi trôi
Nằm lại nữa tàn sương phách ấy
Dậy chưa thôi lạnh khói hồn ai
Âm vang nhã nhạc hoài bừng vỡ
Ngắt lặng trầm hương mãi thoảng rơi
Tìm đến đã vàng trăng khuất nẻo
Hiên ngoài trở giấc gọi lòng nguôi
Bài 3:
X HUẾ
Điên chừ ngả ngốn quậy mi coi
Mót quá tau mò tới đặng chơi
Lỳn vọc có mô răng hở Chúa
Kặk mơn khôông phải vậy a Trời
Rêm mou rứa cạ hoài eng khoái
Quíu đýt ri đeo mãi ả đòi
Ghiền nữa nớ làm ni róng riết
Thèm ai ngọ với ngoạy chau ơi
Hai bài đầu anh bạn tôi làm đã lâu, chỉ bài thứ ba là mới làm, nhưng không gửi báo nào, vì xem chúng không hợp thời nữa; tuy vậy, Tết rồi tình cờ đọc được ấn phẩm nói trên của NXB Văn Học, với lời chú thích tắc trách của người làm sách, anh ta đã đồng ý để tôi nêu nhận xét phản hồi, cũng như dẫn lại những bài “xiếc thơ” ấy, làm thí dụ minh họa.
BÙI HOẰNG VỊ
Saigon, 3/2007