Người Nigeria đã nuôi dưỡng hầu như tất cả các thể loại văn chương như tiểu thuyết, thơ, kịch, du ký, tiểu sử, và tự truyện. Tuy nhiên, ở đây chỉ nhấn mạnh đến truyện hư cấu, thơ và kịch, tức những thể loại mà họ đã đạt được những thành tựu rất đáng kể. Văn chương tiếng Anh của Nigeria cũng chứng kiến một sự nở rộ trong một thập niên rưỡi qua. Việc Wole Soyinka, người có thể được xem như nghệ sĩ văn chương quan trọng nhất của Châu Phi Da Ðen, được trao giải Nobel Văn Chương vào năm 1986 khẳng định chiều cao của nền văn chương nước này. Gần đây, Ben Okri và Niyi Osundare đã giúp củng cố vị thế này
Nigeria là nước có sản lượng văn chương lớn nhất Châu Phi. Có trên năm mươi nghệ sĩ văn chương nổi tiếng hiện đang hoạt động, và riêng khối lượng văn chương cũng đã vượt xa bất cứ nước Châu Phi nào khác. Nền độc lập chính trị từ năm 1960 đã mang lại nhận thức lớn lao đối với các vấn đề xây dựng quốc gia trên nền những thực thể chủng tộc đa dạng cấu thành khối khổng lồ gọi là Nigeria. Ðiều này đã chiếm ngự phần lớn văn chương đặc biệt là trong những năm đầu độc lập.
Văn chương đang bàn đến ở đây là văn viết, để phân biệt với văn nói, hay nghệ thuật diễn thuyết, và là thứ văn chương được viết bằng tiếng Anh và một vài thứ tiếng của Nigeria. Hiện tại, văn chương Nigeria tiếng Anh đang thu hút chú ý nhiều hơn và có ảnh hưởng lớn hơn trên toàn quốc và quốc tế. Sự nổi trội này là do nền văn chương ấy đã được tạo ra bởi giới ưu tú mới, từng bị tây hoá và thường giỏi tiếng Anh hơn là những ngôn ngữ bản địa. Mặc dù một số người Nigeria có trình độ văn hoá cao (như Giáo Sư Akin Isola) đã chọn viết bằng ngôn ngữ bản địa thay vì bằng tiếng Anh, số nhà văn theo con đường này thực ra rất ít.
Văn chương Nigeria tiếng Anh đã nêu lên được nhiều vấn đề liên quan tới tình hình đương đại của nước này hơn là văn chương bằng những ngôn ngữ Nigeria bản địa. Trong khi văn chương tiếng bản địa phần lớn được neo lại với quá khứ, gợi lại những hình ảnh và biểu tượng thuộc về di sản phong phú của nước này, thì văn chương tiếng Anh đã tự điều chỉnh một cách mạnh mẽ và hưởng lợi nhuận nghệ thuật nhiều hơn khi đến với nền văn chương rộng và đa dạng hơn của thế giới. Như vậy, chính là văn chương Nigeria tiếng Anh, vốn vượt khá xa so với văn chương thổ ngữ, đã nêu lên được những vấn đề về va chạm và xung đột văn hoá, vị trí của truyền thống giữa những giá trị tinh thần hiện đại, những vấn đề của chính quyền trong một chính thể hiện đại, cũng như những ý niệm về sự phân biệt giới tính và vị trí của nữ giới trong thực tế mới. Nó cũng quan tâm tới cách thế đi tới, một khi quốc gia Nigeria vượt qua được những vấn đề hiện tại, thực hiện được đầy đủ tiềm năng của nó, và trở thành một thành viên trong cộng đồng những quốc gia thịnh vượng.
Văn chương Nigeria biểu lộ những cuộc đấu tranh của một dân tộc mà đất nước đang trải qua một quá trình đau thương để chuyển từ thuộc địa qua tân thuộc địa rồi tới quốc gia hoàn toàn tự quyết. Sau một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu (1967-70), tiếp đến một cuộc bùng phát dầu hoả được cai quản tồi tệ mà, riêng nó, tạo ra những trục trặc xã hội và chính trị mà quốc gia này vẫn chưa vượt qua được, thì rõ ràng rằng các nghệ sĩ Nigeria có vẻ phù hợp với định nghĩa tiền thuộc địa rằng nghệ sĩ là “kẻ la giữa phố” (“town crier”), một từ ngữ mượn của nhà thơ quá cố Christopher Okigbo. Họ biến văn chương Nigeria, trong mọi dạng thức của nó, thành một hành động xã hội chống lại cái lố lăng của xã hội mới.
Truyền thống thơ phản kháng ở Nigeria bắt đầu với “Ðýờng của Sấm” (“Path of Thunder”) của Okigbo. Với bài thơ này, Okigbo đánh dấu một bước quan trọng trong thi ca Nigeria nhằm vượt qua sự “cãi vã với chính mình” thường thấy trong thơ và sự than khóc, bằng lời lẽ riêng tư, về những nỗi buồn và thất bại của khối liên hiệp. Bài thơ này báo trước cơn biến động bao trùm toàn Nigeria trong khoảng giữa thập niên 1960, kết thúc bằng cuộc nội chiến, mà, như một bi kịch, đã cướp đi mạng sống của chính Okigbo.
Nigeria hiện có ba thế hệ nhà thơ đang còn sống, và chưa một ai có thể bước ra khỏi truyền thống phản kháng. Ở Soyinka (thế hệ đầu tiên), cuộc phản kháng có tầm lục địa, đặc biệt là trong hai tác phẩm Ogun Abibiman và Trái Ðất Của Mandela Và Những Bài Thơ Khác (Mandela’s Earth and Other Poems). Cả hai đều có chủ đích cống hiến cho cuộc đấu tranh giải phóng nhân quyền ở Nam Phi — cuốn đầu nói về sự kiện Mozambique năm 1975 tuyên chiến với chính quyền tách biệt chủng tộc Nam Phi, và cuốn thứ hai nói về chính cuộc đấu tranh của người Nam Phi, được biểu hiện bằng con người Nelson Mandela bất khuất, bị xiềng, như Prometheus, vào những tảng đá đảo Robben. Giữa những bài thơ khác của tập thơ trữ tình cao độ này, còn có những bài xoáy vào giới lãnh đạo tàn bạo và hiếu sát mà Châu Phi phải chịu đựng trong ba thập niên trước.
Tính cách phản kháng của thế hệ nhà thơ thứ hai, ta có thể thấy điển hình trong thơ của Odia Ofeimun và Niyi Osundare. Cả hai công khai thừa nhận họ là những người theo chủ nghĩa Marx, và phương châm nghệ thuật của họ là thái độ hết lòng với giai cấp vô sản và cuộc giải phóng quần chúng. Tuy vậy thi tứ của họ rất khêu gợi và hoàn bị. Harry Garuba, một nhà thơ khi thì tự khiêm khi thì tự thú, dẫn dắt thế hệ nhà thơ thứ ba của Nigeria. Các giọng thơ của Garuba, nhà thơ kiêm nhà báo Afam Akeh, và giáo sư đại học trẻ Sesan Ajayi cho thấy vài hứa hẹn của một tương lai tươi sáng hơn.
Trong văn xuôi, các tác phẩm Những Ðồi Kiến Của Savannah (Anthills of the Savannah) của Chinua Achebe và Ngay Trước Bình Minh (Just Before Dawn) của Kole Omotoso có vị trí hàng đầu trong những tiểu thuyết thể nghiệm thô sơ của Nigeria trong hai thập niên vừa qua. Tiểu thuyết của Achebe đối đầu với sự suy thoái của chủ nghĩa nhân đạo, xảy ra sau nhiều năm quân đội can thiệp vào nền chính trị quốc gia. Tác phẩm của Omotoso, ở mặt khác, bện những yếu tố lịch sử thực tế và hư cấu để phơi bày một bức tranh đầy xáo trộn về sự kiện làm thế nào quốc gia Nigeria được nối kết lại, chẳng những bởi các giới chức Anh mà còn bởi các chính khách hay cãi nhau vặt của Nigeria, nhận thấy độc lập là cơ hội để tạo nên địa vị cho chính mình.
Những nỗ lực của Achebe và Omotoso đã bị che khuất bởi sự vươn lên của Ben Okri, một người đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình ở tuổi 19. Okri là một đứa trẻ của những năm 1970, và ba cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh cho thấy sự chán nản và xa lánh của những người thuộc thế hệ này. Okri là một tiểu thuyết gia viết mạnh theo truyền thống của nhà văn Columbia Gabriel Garcia Marquez và nhà văn sinh ở Ấn Ðộ Salman Rushdie. Một nhà phê bình trong vùng gần đây đã gọi Okri là “thí dụ đầu tiên về sự giao phó của trí tưởng tượng cho quyền lực của chính nó đầu tiên và trên hết” trong văn chương Nigeria đương thời.
Một người Nigeria khác mà thế giới chắc chắn sẽ nghe đến là nhà văn trẻ Biyi Bandele-Thomas, với hai tác phẩm đầu tiên là Người Tới Từ Phía Sau Của Bên Kia (The Man Who Came from Back of Beyond) và Người Lo Việc Ðầy Thiện Cảm Và Những Truyện Khác (Sympathetic Undertaker and Other Stories). Những truyện của Thomas được trình bày theo phong cách siêu thực kết hợp với tính hài hước và một trí tưởng tượng phong phú.
Một trong những hiện tượng văn chương của hai thập niên qua là sự vươn lên của các nhà văn nữ. Flora Nwapa được tiếp nối bởi Buchi Emecheta và Adaora Ulasi hồi giữa thập niên 1970 và tới giữa thập niên 1980 thì có Ifeoma Okoy và Zaynab Alkali. Theo những định nghĩa kiểu Tây phương, các nhà văn này dường như không đủ tiêu chuẩn để cầm lá cờ nữ quyền. Tuy nhiên, tất cả trừ Ulasi đều trình bày một bức tranh hiện thực về trật tự chủ đạo của một xã hội phụ hệ và những tập tục của nó. (*)
Sự kết hợp của các hình thức (nghệ thuật quần chúng và nghệ thuật văn chương) tiêu biểu cho sân khấu ở Châu Phi thì không đâu rộng lớn như ở Nigeria. Có thể nhận thấy sự hiện diện siêu phàm của Wole Soyinka trong ngành kịch nghệ. Và trong khi ông viết những vở kịch thuần túy văn chương — The Jero Plays, Opera Wonyosi, A Play of Giants — toàn bộ trứ tác của Soyinka rõ ràng là nằm trong các vở kịch mà những yếu tố tiền văn chương lấn át những yếu tố văn chương. J. P. Clark là người cùng thời với Soyinka, và cả ông này nữa, cũng vẫn trung thành với thứ kịch trong đó sự kết hợp giữa các hình thức chi phối tất cả.
Tác phẩm của hai nhà soạn kịch Femi Osofisan và Bode Sowande đại diện cho não trạng của nền kịch nghệ Nigeria mới. Hai tác giả này tin tưởng ở nghệ thuật cao cấp, đặc biệt là Osofisan, tận dụng lý thuyết của Marx coi sự phản ảnh như một phương tiện để phân tích xã hội. Cả hai kịch tác gia này đều quan tâm tới lịch sử và những huyền thoại và tin một cách cuồng nhiệt, rằng lịch sử là một màn trình diễn đang xảy ra trong đó từng nhóm kinh nghiệm có thể được tách rời.
Văn chương Nigeria đang liên tục gặt hái từ thực tế của những tiến trình xã hội của nước này trong truyền thống tốt đẹp nhất của nghệ thuật phản kháng.
(*) Lời tòa soạn: Nhận định này được viết vào thập niên 1990, từ đó đến nay đã có nhiều thành tựu từ những nhà văn nữ Nigerian trong văn chương và đấu tranh xã hội. Chúng tôi sẽ tiếp tục giới thiệu những nhà văn đương đại Nigerian trong những số damau.org kế tiếp.