- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

Thưởng thức nghệ thuật như thế nào?

 

 

 

(Về một vài luận điểm được Cynthia Freeland bàn tới trong cuốn Thế mà là nghệ thuật ư ?)
 

Cynthia Freeland, trong cuốn Thế mà là nghệ thuật ư?[1], thảo luận về những câu hỏi căn bản: “nghệ thuật là gì, ý nghĩa của nó ra sao và tại sao chúng ta coi trọng nó” (37). Bà muốn giải quyết các vấn đề liên quan đến sáng tạo, tiếp nhận và diễn giải tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là những hiện tượng gây tranh cãi hay khó được chấp nhận, có nghĩa là chạm đến vấn đề cốt lõi: định nghĩa về nghệ thuật và định nghĩa về người nghệ sĩ. Để làm điều này đương nhiên bà phải vận dụng các lí thuyết về nghệ thuật (như lý thuyết hành lễ, lý thuyết hình thức, lý thuyết mô phỏng, lý thuyết biểu hiện, lý thuyết nhận thức), trong mục đích soi sáng đối tượng. Nghệ thuật đương đại vốn đã là một thách đố đối với công chúng, và Freeland viết để giải đố, chứ không phải để khiến cho sự việc trở nên rắc rối hơn, vì thế bà quan tâm đến việc “làm thế nào để điều giải nghĩa của nghệ thuật thông qua diễn giải” (42).

Bài viết này chỉ tập trung khảo sát nghiên cứu của Freeland chủ yếu trên hai phương diện: tiếp nhận của công chúng và diễn giải của người phê bình, tức là từ góc độ thưởng thức tác phẩm nghệ thuật. Những phương diện khác trong nội dung của cuốn sách, xin nhường lại cho độc giả.

Bắt đầu bằng việc đề cập đến những tác phẩm mỹ thuật đương đại gây tranh cãi vì tính chất nhờn gớm và khiêu khích của chúng, Freeland muốn đặt vấn đề về tính phức tạp và những khó khăn trong việc điều giải các diễn giải về tác phẩm cũng như trong việc xác định thế nào là một tác phẩm nghệ thuật. Để bàn về việc thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, Freeland đã dựa trên các lý thuyết về mỹ học của David Hume, Emmanuel Kant, và các hậu duệ của Kant ở thế kỷ XX. Bằng một số trang viết ngắn gọn Freeland nêu bật các quan điểm của Hume và Kant trong việc xác định khiếu thẩm mỹ và sở thích về cái đẹp. Cả hai triết gia này đều thống nhất về tính thứ bậc của các tác phẩm nghệ thuật, có những tác phẩm đẹp hơn các tác phẩm khác ; họ cũng thống nhất về việc một số người có khiếu thẩm mỹ hơn hẳn những người khác, chính những người này có khả năng đánh giá cái đẹp, có khả năng phân định thứ bậc cho các tác phẩm.

Theo Hume, số người có những năng lực đặc biệt này có thể xác định giá trị của các tác phẩm, có thể phân biệt cái gì đẹp và cái gì xấu, nhờ giáo dục và trải nghiệm họ trở thành những chuyên gia, những trọng tài thẩm mỹ, và thiết lập nên hệ thống chuẩn mực để đánh giá cái đẹp. Hệ thống này sẽ được đa số chấp nhận như là có tính phổ quát. Để làm được điều đó họ phải giữ được sự khách quan và tránh xa mọi định kiến, mọi sự thiên vị. Tuy nhiên Freeland đã không nêu lên một điểm quan trọng là Hume muốn điều giải giữa tính tương đối của sở thích (mỗi người có một sở thích khác nhau) và những chuẩn mực mang tính phổ quát trong việc đánh giá cái đẹp, ông hướng tới việc giải thích làm thế nào mà các chuẩn mực của một số chuyên gia đưa ra có thể trở thành phổ quát.

Kant, trong khi tìm cách nối kết tính chủ quan với tính phổ quát và tất yếu trong năng lực đánh giá cái đẹp, đã đi tới chỗ đề xuất khái niệm “tính phổ biến chủ quan” của phán đoán thẩm mỹ. Ví dụ về việc thừa nhận bông hồng đỏ là đẹp cho thấy rằng “khi gọi một vật là đẹp, thì chính lúc ấy, ta nhấn mạnh rằng mọi người đều cùng công nhận thế” (59). Với Kant, sự hài lòng chủ quan do cái đẹp gợi lên là một sự hài lòng có khả năng được mọi người chia sẻ, vì nó phụ thuộc vào tính khách quan của đối tượng. Và sự hài lòng, niềm vui thú trước cái đẹp là một cảm giác bất vị lợi ; sự phản hồi thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ là một cảm xúc tinh khiết, hoàn toàn khác biệt với những dục vọng và ham muốn mà Kant cho là tầm thường hay vị lợi. Ví dụ nếu xem bức tranh vệ nữ khoả thân mà có khao khát tình dục thì người xem đã không chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của bức tranh, anh ta để cho những dục vọng tầm thường xâm chiếm, bức tranh đối với anh ta không phải là nghệ thuật. Kant cho rằng nghệ thuật là kết quả hoạt động của những tài năng thiên bẩm. Đối tượng thẩm mỹ là những hình thức (form) có khả năng đánh thức các giác quan, khơi gợi những quan năng tri giác, tưởng tượng, trí tuệ của người xem.

Nghiên cứu của Kant về cái đẹp được phát triển theo nhiều hướng khác nhau ở thế kỷ XX. Freeland điểm qua một số phê bình gia, trong đó có Clive Bell với quan niệm rằng, đối với tác phẩm nghệ thuật, hình thức mang nghĩa (significant form)[2] quan trọng hơn là nội dung. Khi giới thiệu các quan điểm của Bullogh, Freeland nhận thấy ông đã tiếp nối ý niệm của Kant “về cái đẹp như “sự tương tác tự do của tưởng tượng” (64) để cho rằng nghệ thuật và chính trị không có mối liên hệ với nhau. Và Greenberg xem hình thức và cách xử lý chất liệu là chất lượng của tác phẩm, thông điệp không còn vai trò gì nữa. Tuy nhiên Freeland cũng nhấn mạnh một truyền thống khác của phê bình nghệ thuật đương đại tập trung vào nội dung, cảm xúc của nghệ sĩ và mang màu sắc chính trị, đại diện là Lippard. Chúng ta sẽ còn trở lại với Lippard với bài phê bình nhằm bảo vệ Serrano.

Freeland nắm bắt được sự hoài nghi của công chúng đối với kiểu tác phẩm gây sốc, sử dụng những chất liệu bị xem là không có tính nghệ thuật: máu, chất thải của con người (phân, nước tiểu), xác chết thối rữa. Thế mà là nghệ thuật ư ?, nhan đề của cuốn sách lột tả đầy đủ sự hoài nghi này.

Khi vận dụng các lí thuyết của Hume, Kant, Bell…, hay lý thuyết hành lễ, Freeland không hẳn đặt trọng tâm vào vấn đề tiếp nhận, mà chủ yếu là để biện minh, hay đúng hơn, để chứng minh rằng có những tác phẩm gây sốc thực sự là nghệ thuật. Chúng tôi sẽ phát triển thêm một chút ở chỗ mà Freeland dừng lại, liên quan đến tiếp nhận của công chúng. Có thể phần phát triển này sẽ có một ích lợi nào đó cho việc tiếp nhận nghệ thuật của chính chúng ta hiện nay chăng ? Như Huy, trong lời giới thiệu, có nói đến “khoảng trống trong giáo dục mỹ học” ở Việt Nam. Đương nhiên, trong tiếp nhận thẩm mỹ, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của giáo dục. Dù vậy kể cả khi chúng ta tin rằng giáo dục thẩm mỹ được thực hiện tốt hơn hẳn trong một môi trường như nước Mỹ, thì việc tiếp nhận cũng vẫn đặt ra những vấn đề gay cấn, như trường hợp bức ảnh Piss Christ của Serrano. Những tranh luận nảy lửa xung quanh tác phẩm này cho thấy có lẽ còn rất lâu mới đến cái ngày nghệ thuật có thể tồn tại và được tiếp nhận một cách hoàn toàn tự trị, có nghĩa là như một giá trị tự tại, tách rời khỏi những quy chiếu văn hoá, đạo đức, tôn giáo, chính trị…

Piss Christ là một bức ảnh chụp cây thánh giá với tượng Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút được ngâm trong nước tiểu của chính nghệ sĩ. Đó là một bức ảnh tuyệt đẹp, hiệu quả ánh sáng đặc biệt tạo cảm giác bức thánh giá tắm trong một quầng sáng ấm nóng màu da cam. Có lẽ người ta có thể hoàn toàn thống nhất về giá trị thẩm mỹ của nó, tính thánh thiện của nó, nếu không có cái tiêu đề của tác phẩm, và nếu không biết cái chất lỏng bao bọc cây thánh giá là nước tiểu. Đứng trước bức ảnh “dường như chúng ta bị giằng xé giữa hai xung lực, một mặt bị shock, một mặt lại chìm đắm vào một hình ảnh huyền ảo, và có lẽ đầy tôn kính” (69). Bức ảnh được tiếp nhận ở những đối cực khác nhau: nó gây ra một xcăng-đan lớn và gợi nên những phản ứng ghê tởm đến mức có người còn tuyên bố không muốn biết Serrano là ai. Đương nhiên, sự ghê tởm này gắn liền với những tình cảm tôn giáo của người xem. Ở cực kia, nó cũng nhận được những sự ủng hộ rất nhiệt thành.

 

clip_image002

 

Trong cuốn sách của mình, Freeland nêu ra những luận điểm mà Lippard đã sử dụng để bảo vệ Serrano, trên các phương diện: hình thức và chất liệu, nội dung ý nghĩa, và truyền thống nghệ thuật, tức là bối cảnh của tác phẩm. Thứ nhất, về chất liệu: nước thải cơ thể, với Serrano, là một yếu tố thuộc về con người, ông không xấu hổ về nó. Hơn nữa, trong quan niệm của công giáo, đau đớn thể chất và chất thải vốn là biểu hiện gắn liền với quyền lực tôn giáo. Thứ hai, về nội dung hay ý nghĩa của tác phẩm, Lippard chỉ ra rằng Serrano không chống lại tôn giáo. Chính Serrano đã giải thích ý đồ của ông khi làm bức ảnh, rằng ông không có ý định nhạo báng Chúa, ông chỉ muốn gợi lại những nỗi đau, những nỗi sỉ nhục mà Chúa từng phải chịu, đó là cách ông nhìn Chúa từ góc độ con người, từ góc độ nhân văn. Ngoài các luận điểm của Lippard được Freeland tổng kết trong cuốn sách, chúng tôi giới thiệu thêm một số hướng phân tích khác liên quan đến ý nghĩa của bức ảnh này. Có những phân tích xuất phát từ vấn đề cơ thể: cơ thể chịu nạn của Chúa rất điển hình để diễn tả nỗi đau đớn mà con người phải chịu đựng. Có những diễn giải tập trung vào tự do biểu hiện của nghệ sĩ[3]. Những diễn giải theo hướng phân tâm học thậm chí đưa Serrano tới chỗ hô ứng với Deleuze khi cho rằng tác phẩm của nghệ sĩ góp phần xác nhận ý tưởng của triết gia: cần phải tạo ra vô thức. Thứ ba, Lippard liên kết Serrano với Goya và Bunuel, những người đã tạo ra một truyền thống về cái đẹp trong tính bạo liệt, cái đẹp trong tương quan với bạo lực. Bạo lực được thể hiện trong nghệ thuật chính là một cách thức mà người nghệ sĩ sử dụng để tự mình đối mặt và để mọi người có thể đối mặt với bản năng tự nhiên tàn bạo trong con người. Lippard khẳng định rằng tình dục và chính trị cũng là những chủ đề quen thuộc trong các hoạ phẩm của Goya. Sự kiện ông bị toà án dị giáo Tây Ban Nha xét xử vì bức họa Maja khoả thân, và việc ngày nay ta thấy phiên bản của bức tranh có thể được dán trên các bức tường của bất kỳ một công trình công cộng nào, cho thấy một thực tế: một tác phẩm gây shock vào thời điểm nó ra đời rất có thể là một kiệt tác và kỹ thuật của nó có thể trở thành chuẩn tắc nghệ thuật trong tương lai.

Freeland phản đối lại quan niệm cho rằng các tác phẩm khiêu khích và gây kinh tởm trong nghệ thuật đương đại chỉ để nhằm mục đích lợi nhuận và giải trí. Dựa trên lí luận nghệ thuật của Hume, Kant và các nhà phê bình đương đại, bà đạt tới việc kết luận rằng, dù đôi khi rất khó để bảo vệ cho các tác phẩm loại này, nhưng chúng vẫn là các tác phẩm nghệ thuật, không hề nằm ngoài hệ thống chuẩn mực đã được truyền thống xác định. “Nghệ thuật bao gồm không chỉ các tác phẩm sở hữu sự đẹp đẽ về hình thức, được hân hưởng bởi những người có khiếu thẩm mỹ tốt, hay các tác phẩm với vẻ đẹp và những thông điệp đạo đức hướng thượng, mà còn bao gồm cả các tác phẩm trông tệ hại và gây khuấy động, với một nội dung đạo đức tiêu cực đáng sợ” (80) Tuy nhiên, thế nào là tiêu cực đáng sợ, điều đó lại phụ thuộc vào diễn giải. Có nghĩa là một tác phẩm có thể tiêu cực và đáng sợ từ góc độ diễn giải này, nhưng lại hoàn toàn có thể trở nên tích cực và tiến bộ xét từ một góc độ diễn giải khác. Ở đây chúng tôi muốn tiếp tục phát triển hơn một chút những phân tích về tính khiêu khích của nghệ phẩm.

Khả năng khiêu khích chỉ có ở những người biết và dám vượt lên trên những quan niệm thông thường, những quan niệm chung và phổ quát, những người dám tung ra một cách nhìn nhận, một cách quan niệm, một cách ứng xử riêng, trong nghệ thuật, đương nhiên, vì ở đây đang bàn đến nghệ thuật. Nhưng không chỉ trong nghệ thuật, vì quan niệm về nghệ thuật chịu sự chi phối của một quan niệm chung về đời sống, ở mọi phương diện. Tuy nhiên, cần phải minh định rằng: 1/ Có những nghệ sĩ ý thức rất rõ về sự khiêu khích của mình. 2/Nhưng đôi khi có những ý tưởng bị coi là khiêu khích, trong lúc mà người nghệ sĩ hoàn toàn không có ý định khiêu khích. Trong quá trình sáng tạo, anh ta đuổi theo những suy tư, đối với anh ta, chúng là bình thường, là tự nhiên, là cái mà anh ta thấy cần phải thể hiện, cần phải làm, như một nhu cầu, vì nó tốt cho anh ta, và vì thế anh ta tưởng rằng nó cũng tốt cho mọi người. Nhưng kết quả, nhiều khi có những phản ứng hoàn toàn bất ngờ đối với anh ta. Trường hợp Serrano cho thấy, từ nỗi đau mà nghệ sĩ muốn cảm nhận, bức ảnh đã gợi nên những diễn giải về tính báng bổ, phạm thánh, đến mức có những người không thể chấp nhận được nó. Từ tư tưởng của người nghệ sĩ tới diễn giải của công chúng, con đường dẫn tới những chỗ mà đôi khi nghệ sĩ không thể ngờ được: ý tưởng nhân văn của ông ta có thể bị công chúng nhìn nhận là phi nhân, sự tôn trọng của ông có thể biến thành báng bổ. Thật may là ngày nay, trong một thế giới với những cách tư duy đa chiều, có một bộ phận công chúng và một bộ phận các nhà phê bình nghệ thuật có thể chia sẻ ngay lập tức và nhìn nhận được ngay lập tức các khía cạnh phức tạp trong sáng tạo, trong cảm xúc và suy tư của con người, để có thể ngay lập tức bảo vệ nghệ sĩ. 200px-Origin-of-the-World Điều đó có ý nghĩa to lớn, nếu ta đem so số phận bức ảnh của Serrano với số phận bức tranh Cội nguồn thế giới của hoạ sĩ Courbet, một bức tranh đã phải giấu mình bao nhiêu năm trong bóng tối, chờ cho được đến khi xã hội nhìn thấy tính nhân văn chứ không phải tính vô luân hay suy đồi của nó. Ở đây có lẽ nên nhấn mạnh một điểm mà Freeland đề cập đến khi phân tích tính khiêu khích của một số nghệ phẩm: ở những tác phẩm nghệ thuật đích thực[4], tính khiêu khích chính là phẩm chất nhân văn, chính là dự cảm nhân văn của người nghệ sĩ. “Khi chụp một xác chết, có lẽ mục đích của nghệ sĩ không phải để đắm đuối vào vẻ hư tàn của nó, mà để mang tới cho các nạn nhân vô danh vài khoảnh khắc đồng cảm của nhân tính.” (76). Những gì mang tính khiêu khích của ngày hôm nay sẽ đặt nền móng cho một sự tiếp nhận bình thường trong tương lai ; đấy là lý do mà ngày nay, bức tranh Cội nguồn thế giới được đưa ra khỏi nơi cất giấu và được trưng bày ngay gian đầu tiên của bảo tàng Orsay, nơi mà cả những đứa trẻ ở mọi lứa tuổi cũng có thể chiêm ngắm nó.

Tính khiêu khích là một trong những biểu hiện của tự do sáng tạo, cái tự do mà người nghệ sĩ đi tiên phong trong việc tự dành cho mình quyền thể hiện nó. Chính nghệ sĩ, bằng tự do sáng tạo của mình, chấp nhận trả giá, mở đường và đặt nền móng cho sự tự do trong tiếp nhận. Tự do tiếp nhận thường vận động chậm hơn, đòi hỏi phải có thời gian để công chúng tự giải thoát mình khỏi những ràng buộc, những định kiến về thẩm mỹ cũng như các định kiến tôn giáo, văn hóa, chính trị, xã hội, để có thể thưởng thức được những tác phẩm hoàn toàn nằm ngoài quan niệm và hình dung của mình. Ngày nay, các nghệ phẩm mang tính khiêu khích, dù không thoát khỏi sự lên án của một bộ phận công chúng, nhưng dù sao có cơ may nhiều hơn là các tác phẩm cùng loại trong quá khứ, do công chúng ngày nay có sự phân hóa rõ rệt, và đặc biệt một bộ phận các nhà phê bình, nghiên cứu nghệ thuật rút được những kinh nghiệm xương máu từ quá khứ, đã cố gắng để cùng đồng hành với nghệ sĩ. Nếu một tác phẩm thực sự có giá trị thì giá trị của nó sẽ có rất nhiều khả năng được nhìn nhận, cho dù nó ra đời trong một xã hội mà định kiến thẩm mỹ, hay định chế chính trị rất hà khắc. Kể cả khi bị kiểm duyệt một cách trắng trợn, bị cấm đoán, thì trong thời đại internet này, một tác phẩm có giá trị vẫn có cơ may được quảng bá và được thừa nhận bởi những cá nhân hoặc tổ chức có quan niệm khác với quan niệm của những người vận hành bộ máy kiểm duyệt, và thuộc về một cơ cấu xã hội khác. Thực tế, ở thời của chúng ta, kiểm duyệt không mang lại hiệu quả mà những người kiểm duyệt mong muốn, mà kết quả thường là ngược lại. Sự kiểm duyệt thúc đẩy những người đối lập bảo vệ một cách mạnh mẽ hơn ý kiến của họ. Và sự kiểm duyệt càng thô bạo thì phản ứng càng quyết liệt, thậm chí nó sẽ tạo ra cả một phong trào rộng lớn chứ không chỉ ở một vài cá nhân lẻ tẻ. Tại sao những người chống kiểm duyệt có thể nhanh chóng tìm thấy tiếng nói chung, và có thể nhanh chóng phát động cả phong trào nếu cần ? Lí do đúng như ý kiến của Louise Charbonnier mà chúng tôi đã trích dẫn trên đây: mọi ý định kiểm duyệt đều hèn nhát, và hơn thế, đều phi nhân.

Ở chương 6 của cuốn Thế mà là nghệ thuật ư ? Freeland tập trung bàn về vấn đề diễn giải và ý nghĩa của nghệ phẩm, dựa trên sự khảo sát lý thuyết biểu hiện (expression theory) và lý thuyết nhận thức (cognitive theory). Cả hai lý thuyết này đều thống nhất về chức năng thông đạt của nghệ thuật: truyền tải cảm xúc, tư duy hay ý tưởng. Và cần tới các diễn giải để xác định làm cách nào mà tác phẩm thực hiện được chức năng này. Vấn đề là làm thế nào để điều giải các diễn giải vốn rất khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Cũng như Eco (hay chịu ảnh hưởng của Eco ?) Freeland phân định thứ bậc cho các diễn giải, khi cho rằng “dường như có một số diễn giải nghệ thuật tốt hơn những diễn giải khác” (244). Đương nhiên, có những diễn giải hay và những diễn giải dở. Eco cũng đã từng nói đến việc một số phê bình gia tự làm hại thanh danh của mình bằng những diễn giải tồi khi vin vào cái cớ là diễn giải có thể mang tính vô tận và mọi diễn giải đều được phép. Trên thực tế thì tác phẩm có quyền của nó, và quyền của người diễn giải phải được thực hiện dựa trên sự tôn trọng quyền của tác phẩm. Về phần mình, Freeland khẳng định: “Một diễn-giải-hay phải dựa trên nền tảng lý tính và bằng cớ, cũng như phải cung cấp được một sự thấu tỏ phong nhiêu, phức hợp và có tính sáng tỏ vào nghệ phẩm. Đôi khi diễn giải có thể chuyển hoá một kinh nghiệm thưởng lãm nghệ thuật từ chỗ đầy ác cảm thành ra hân hưởng và thấu hiểu.” (244) Để chứng minh điều này Freeland đưa ra một hiện tượng gây tranh cãi và khơi gợi nhiều khuynh hướng diễn giải khác nhau: Francis Bacon. Nếu ở Serrano, nghệ thuật được đặt trong quan hệ với cái kinh tởm và tính khiêu khích, thì với Bacon, đó là tương quan giữa nghệ thuật và cái xấu, sự biến dạng. Tác phẩm của Bacon cũng gây nên những bất đồng sâu sắc trong giới chuyên môn về hội hoạ. Freeland giới thiệu với chúng ta những nghiên cứu thuần tuý về phương diện hình thức của Sylvester và cũng nói thẳng rằng, theo bà, phê bình hình thức của Sylvester không đạt tới tầm vóc của Bacon. Những nghiên cứu theo hướng tâm lí học tiểu sử và phân tâm học có khả năng đi sâu hơn vào những chiều kích của hội hoạ Bacon. Và điều lí thú là bản thân hoạ sĩ không chấp nhận những diễn giải khai thác các ám ảnh cá nhân của ông, những chi tiết liên quan đến mối quan hệ khó khăn giữa ông và cha mình, đến khuynh hướng tính dục đồng giới và những trải nghiệm đen tối và bi quan của ông. Tuy nhiên, ở phương diện này, Freeland không đứng về phía tác giả, bà giành cho mình quyền nghi ngờ những điều tác giả nói và ủng hộ những phân tích sử dụng các khía cạnh tiểu sử. Sau khi khảo sát các diễn giải đa dạng về Bacon, Freeland không từ chối trách nhiệm đưa ra nhận định riêng của mình. Theo bà các xung đột trong trường hợp phê bình về hoạ sĩ này có thể được giải quyết, và theo lựa chọn của bà: «các diễn giải tốt nhất luôn tập trung vào cả phong cách hình thức lẫn nội dung tác phẩm của Bacon” (248) Có thể áp dụng các lý thuyết nhận thức và các lý thuyết biểu hiện để hiểu sâu hơn về tác giả này: nghệ thuật của Bacon là một thứ ngôn ngữ, nó giúp cho quá trình nhận thức và thông đạt các tư duy phức hợp ; đồng thời nó cũng biểu hiện cảm xúc. Cụ thể hơn, Freeland giới thiệu ba đại diện của lý thuyết biểu hiện: Tolstoi và Freud, những người cho rằng những gì được biểu hiện trong tác phẩm chính là nỗi xúc động và dục vọng ; và Foucault, trong khi đề cập đến “cái chết của tác giả”, đã tập trung vào sự tự ý thức, sự thức tỉnh của chủ thể tiếp nhận. Các lý thuyết nhận thức với tên tuổi của John Dewey, Nelson Goodman, những người cho rằng nghệ thuật cũng truyền đạt tri thức, giống như là khoa học, và rằng quá trình thưởng thức nghệ thuật dẫn tới một hình thái nhận thức sâu sắc. Những giải trình của Freeland bộc lộ quan điểm rõ ràng của bà: tác phẩm nghệ thuật sở dĩ quan trọng đối với chúng ta vì nó có các ý nghĩa, và “nghệ thuật là một dấn thân về nhận thức” (276), nó giúp chúng ta mở rộng nhận thức về chính chúng ta, về xã hội, về văn hoá… Bởi vì nghệ thuật chính là thành quả kết tinh của một nền văn hoá. Bà không đánh giá cao các nghiên cứu chỉ tập trung vào phương diện hình thức. Nhiệm vụ của diễn giải, theo bà, là “trình ra một phân tích duy lý (rationale construal) tường giải được ý nghĩa của một nghệ phẩm [chúng tôi nhấn mạnh]”(277). Đồng thời Freeland đề cao vai trò của các nhà chuyên môn, đề cao tác động của những người làm công việc diễn giải một cách chuyên nghiệp: “Diễn giải chuyên môn hoá chính là trung tâm cho sự thành công của việc truyền thông nghệ thuật, và nó cũng sắm vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo những nghệ sĩ mới” (277).

Những kiến giải của Freeland đưa chúng tôi tới một vài suy nghĩ về vấn đề thưởng thức tác phẩm nghệ thuật nói chung, chứ không chỉ riêng trong lĩnh vực hội hoạ. Để thưởng thức nghệ thuật, cần có ít nhất hai yếu tố: khiếu thẩm mỹ và được giáo dục thẩm mỹ. Giáo dục thẩm mỹ góp phần hình thành và nâng cao khiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên đối với trường hợp các nghệ sĩ bứt phá và tiên phong cho những chuẩn mực thẩm mỹ mới, thì giáo dục thẩm mỹ và khiếu thẩm mỹ có khi chỉ tạo ra những khuôn khổ chật hẹp. Để tiếp cận được với những tư tưởng và hình thức mang tính khai phá, đòi hỏi người thưởng thức cũng phải có một nhãn quan tự do, ít nhất là tự do ngang với nghệ sĩ, đòi hỏi người thưởng thức phải tự đặt mình vào một khoảng trống rỗng, nơi các ràng buộc của môi trường văn hoá, tôn giáo, chính trị… bị xoá bỏ. Đó chính là khoảng trống tự do, là cái hạt nhân hư vô của tự do, theo cách diễn đạt của Sartre. Vì thế mà một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục thẩm mỹ là: ngoài việc truyền bá những kiến thức đã được tổng kết và khái quát hoá, cần góp phần hình thành một tinh thần mở ở người thưởng thức, và góp phần xây dựng cho họ khả năng chối bỏ các chuẩn mực, khi cần, để có thể tiếp nhận những hình thức sáng tạo mang tính tự do, những hình thức sáng tạo mà các nghệ sĩ của tương lai đề xuất. Đồng thời, để có thể thực hiện tốt giáo dục thẩm mỹ, cần tạo ra một đội ngũ các nhà chuyên môn, có thẩm quyền và năng lực trong việc diễn giải nghệ thuật. Đội ngũ này không chỉ có vai trò quan trọng đối với thưởng thức tác phẩm, mà như Freeland đã chỉ ra, còn quan trọng cả đối với việc đào tạo nghệ sĩ.

Nguyễn Thị Từ Huy


[1] Bản tiếng Việt do Như Huy dịch, NXB Tri Thức ấn hành năm 2009. Các trích dẫn từ cuốn sách này sẽ có chú thích về số trang đặt trong ngoặc đơn.

[2] Nghệ sĩ Như Huy dịch từ significant form là mô dạng tạo nghĩa, và có giải thích rất đầy đủ cách lựa chọn này ở chú thích trang 63. Chúng tôi tôn trọng sự tìm tòi này trong cách dịch của ông. Tuy nhiên, từ form đã trở nên quá thông dụng và cặp đôi form/content (nội dung/hình thức) là một vấn đề quan trọng trong nghệ thuật, đặc biệt trong lịch sử phê bình nghệ thuật, vậy nên chúng tôi đề nghị dịch significant form là “hình thức mang nghĩa”, đồng thời hoàn toàn ý thức được rằng một hệ thống thuật ngữ chuẩn trong nghiên cứu khoa học xã hội vẫn còn là niềm mơ ước, và đó vẫn còn là một công việc của tương lai, đòi hỏi nỗ lực của nhiều người.

[3] Louise Charbonnier, trong bài « Con người, hãy nhớ lại những gì ngươi đã nhìn thấy », nói rằng : « Không có hình ảnh nào bị cấm. Người ta chỉ có thể tự cấm mình nhìn thấy.[…] Daniel Arasse viết: “Serrano thôi thúc chúng ta ngắm những gì chúng ta không thích nhìn”. […] Không có hình ảnh nào bị cấm bởi vì nghệ sĩ nhiếp ảnh thúc đẩy chúng ta ngắm nhìn một mảnh của thực tế (kết hợp hiện thực, tưởng tượng và biểu trưng). Mọi hình ảnh đều là một sự đối chiếu. Mọi ý định kiểm duyệt đều hèn nhát. Có một số sự đối chiếu rất quan trọng. Những bức ảnh của Andres Serrano thuộc về số này. » Nguồn : http://www.sitartmag.com/serrano.htm.

[4] Ở đây, dù có thể thừa nhưng vẫn cần nhắc lại một điều hiển nhiên là: có những sản phẩm mang tính khiêu khích nhưng không đạt tới mức độ nghệ thuật. Cũng là chất thải, nhưng không phải bất kỳ ai đưa nó vào sản phẩm của mình cũng có thể biến nó thành nghệ thuật. Lấy một ví dụ trong lĩnh vực văn chương: “cứt” trong tác phẩm của Antonin Artaud là văn chương, nhưng không phải mọi bài văn vần hay mọi bài văn xuôi có chứa từ “cứt” đều là văn chương. Chúng ta hãy đọc một đoạn này trong tác phẩm “Để vứt bỏ sự phán xử của Chúa”của Artaud: “Ở đâu bốc mùi cứt / ở đó có mùi tồn sinh / Con người lẽ ra có thể đã không ỉa / không mở hậu môn, / nhưng nó đã chọn việc ỉa, / như nó đã chọn sống / thay vì cam chịu sống mà như chết.” Cái gì đã biến các từ “cứt” và “ỉa” thành nghệ thuật? Đó cũng là cái đã khiến cho cái chất lỏng vốn là nước tiểu trong bức ảnh của Serrano có thể đem lại cảm giác về sự thánh thiện và tôn kính. Đó là cái, mà theo Nietzsche, đã đưa con người đi từ phẫn hận (ressentiment) đến sáng tạo (création).

 

 

 

.

bài đã đăng của Nguyễn Thị Từ Huy

10 Comments (Open | Close)

10 Comments To "Thưởng thức nghệ thuật như thế nào?"

#1 Comment By Trinh – Trung Lap On 21/04/2010 @ 1:49 pm

Thưa Chị Từ Huy !

Vừa mới đọc cái tựa đề bài viết trên thì thấy hấp dẫn ngay. Rồi càng đọc càng vì thấy rất lạ lùng ….
Xin được hỏi thêm Chị một vài ý sau khi đọc xong đoạn trích dưới đây :

“………….Để thưởng thức nghệ thuật, cần có ít nhất hai yếu tố: khiếu thẩm mỹ và được giáo dục thẩm mỹ. Giáo dục thẩm mỹ góp phần hình thành và nâng cao khiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên đối với trường hợp các nghệ sĩ bứt phá và tiên phong cho những chuẩn mực thẩm mỹ mới, thì giáo dục thẩm mỹ và khiếu thẩm mỹ có khi chỉ tạo ra những khuôn khổ chật hẹp. Để tiếp cận được với những tư tưởng và hình thức mang tính khai phá, đòi hỏi người thưởng thức cũng phải có một nhãn quan tự do, ít nhất là tự do ngang với nghệ sĩ, đòi hỏi người thưởng thức phải tự đặt mình vào một khoảng trống rỗng, nơi các ràng buộc của môi trường văn hoá, tôn giáo, chính trị… bị xoá bỏ. Đó chính là khoảng trống tự do, là cái hạt nhân hư vô của tự do, theo cách diễn đạt của Sartre. Vì thế mà một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục thẩm mỹ là: ngoài việc truyền bá những kiến thức đã được tổng kết và khái quát hoá, cần góp phần hình thành một tinh thần mở ở người thưởng thức, và góp phần xây dựng cho họ khả năng chối bỏ các chuẩn mực, khi cần, để có thể tiếp nhận những hình thức sáng tạo mang tính tự do, những hình thức sáng tạo mà các nghệ sĩ của tương lai đề xuất. Đồng thời, để có thể thực hiện tốt giáo dục thẩm mỹ, cần tạo ra một đội ngũ các nhà chuyên môn, có thẩm quyền và năng lực trong việc diễn giải nghệ thuật. Đội ngũ này không chỉ có vai trò quan trọng đối với thưởng thức tác phẩm, mà như Freeland đã chỉ ra, còn quan trọng cả đối với việc đào tạo nghệ sĩ……..”

* Trong câu : ” …………..cần có ít nhất hai yếu tố: khiếu thẩm mỹ và được giáo dục thẩm mỹ…..”, người đọc hiểu rằng đó là hai yếu tố bắt buộc chăng (ít nhất ! nếu không có không được !). Thực tế tôi thấy hoàn toàn ngược lại. Các nhạc sĩ lớn khi viết bài cho ca sĩ hát, hay dàn nhạc giao hưởng thì phải “đo ni đóng giày” cho ca sĩ và nhạc công, nghĩa là tìm cách đưa cảm xúc của mình vào trái tim quần chúng qua “cứu cánh” người biểu diễn. Đằng này theo ý Chị viết tôi hiểu rằng “muốn đến với tác phẩm của tôi bạn phải có “nghề”” chăng ?

* Đoạn tiếp theo : “……các nghệ sĩ bứt phá và tiên phong cho những chuẩn mực thẩm mỹ mới, thì giáo dục thẩm mỹ và khiếu thẩm mỹ có khi chỉ tạo ra những khuôn khổ chật hẹp……”.

Tôi cho rằng ý câu này có mâu thuẫn. Bởi vì năng khiếu thẩm mỹ thì không thể tạo ra những khuôn khổ chật hẹp được. “How come !” Xin lỗi phải thốt lên bằng tiếng Anh ! Theo tôi đó là cái bệ phóng mạnh mẽ cho người nghệ sĩ đi vào vũ trụ để “hứng lấy tinh hoa của Tạo hóa” trong giây phút thăng hoa !

– Đoạn nữa : “…….Để tiếp cận được với những tư tưởng và hình thức mang tính khai phá, đòi hỏi người thưởng thức cũng phải có một nhãn quan tự do, ít nhất là tự do ngang với nghệ sĩ, đòi hỏi người thưởng thức phải tự đặt mình vào một khoảng trống rỗng, nơi các ràng buộc của môi trường văn hoá, tôn giáo, chính trị… bị xoá bỏ…..”.

Đọc đoạn này tôi thật sự …… “Shocked”. Tôi không nghĩ là có 1 khái niệm “nhãn quan tự do”. Tôi đồ rằng may ra có thể có khái niệm “nhãn quan mất tự do” mà thôi. Thay vì dùng từ “nhãn quan tự do” tôi mạo muội thay thế bằng từ “thái độ ăn mày văn chương”. Khái niệm này đã được đề cập nhiều trên Damau trước đây. Chị Từ Huy nghiên cứu sinh ở Pháp khắc biết tới khái niệm này. Và như vậy không thể có khái niệm “tự do ngang với nghệ sĩ được”, đơn giản vì “ăn mày” thì “no đói có khác nhau”. Và càng không nên bắt người thưởng thức phải “tự đặt mình vào một nơi các ràng buộc của môi trường văn hoá, tôn giáo, chính trị… bị xoá bỏ….”. Đơn giản vì một nhà nhà văn không thể bắt 1 độc giả hồi giáo thưởng thức 1 đoạn văn hay tả một món nấu thịt heo đang thơm nghi ngút ! Chúa ơi !

– Cuối cùng : “……Đồng thời, để có thể thực hiện tốt giáo dục thẩm mỹ, cần tạo ra một đội ngũ các nhà chuyên môn, có thẩm quyền và năng lực trong việc diễn giải nghệ thuật. Đội ngũ này không chỉ có vai trò quan trọng đối với thưởng thức tác phẩm, mà như Freeland đã chỉ ra, còn quan trọng cả đối với việc đào tạo nghệ sĩ……..”

Tôi không hiểu các khái niệm “tạo ra các nhà chuyên môn”, “thẩm quyền trong việc diễn giải nghệ thuật”, “vai trò quan trọng đối với thưởng thức tác phẩm”. Tạo ra có phải là “nhào nặn”, “thẩm quyền” phải chăng là “có quyền bịt miệng”, và “vai trò quan trọng đối với thưởng thức” nên chăng là “định hướng”.

Rất mong được Chị giải thích cho
Kính !
TTL

#2 Comment By Nguyễn Thị Từ Huy On 22/04/2010 @ 9:35 am

Cảm ơn những câu hỏi rất nghiêm túc của anh! Và cũng rất nghiêm túc tôi muốn nói rằng tất cả mọi câu trả lời cho tất cả các câu hỏi của anh đều ở trong bài viết rồi. Tôi không có gì để giải thích thêm. Một văn bản phê bình, cũng giống như một tác phẩm nghệ thuật, một khi đã được trình bày trước công chúng, phải chấp nhận mọi diễn giải mà độc giả dành cho nó.  Các câu hỏi của anh cho thấy một khuynh hướng diễn giải nhất định về bài viết của tôi. Bởi vì chúng vừa là câu hỏi vừa là câu trả lời. Và tôi tin rằng anh hoàn toàn có quyền diễn giải theo cách đó, tin rằng anh có quyền biểu đạt ý kiến của anh theo cách anh đã chọn. Về phần tôi, mọi điều tôi cần nói đã được nói trong văn bản. Và kể từ nay, đối với các văn bản của tôi, nếu quý độc giả có nêu thắc mắc mà không thấy tôi trả lời thì có nghĩa là sự im lặng của tôi bao hàm lòng tôn trọng tuyệt đối của tôi dành cho mọi phán xét, mọi đánh giá của quý vị, và đồng thời cũng bao hàm niềm tin rằng tự  quý vị sẽ tìm thấy cho mình câu trả lời cho những thắc mắc do chính quý vị đặt ra.
Trân trọng!
Nguyễn Thị Từ Huy

#3 Comment By ĐẠI DƯƠNG On 25/04/2010 @ 2:23 am

Đọc bài viết ” Thưởng thức nghệ thuật như thế nào?” của chị Nguyễn Thị Từ Huy tôi cũng có những thắc mắc như  anh Trịnh Trung Lập,  cứ ngỡ sẽ được đọc một trả lời tường tận của chị để hiểu về vấn đề này một cách thấu đáo hơn, nhưng câu trả lời của chị làm tôi thất vọng.
Không hiểu sao tấm hình minh họa mà chị đăng trong bài làm tôi liên tưởng đến tấm hình minh họa trong bài viết: “Lời định mệnh1” đăng trên Tiền vệ của nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh.  Thưởng thức nghệ thuật như thế nào? một câu hỏi không dễ trả lời đối với mọi người…
ĐẠI DƯƠNG

#4 Comment By Ban Biên Tập Da Màu On 25/04/2010 @ 11:15 am

Theo yêu cầu của tác giả Nguyễn thị Từ Huy, chúng tôi vừa post thêm bức tranh Cội Nguồn Thế Giới của họa sĩ Courbet vào bài viết, trong mục tiêu minh họa việc thưởng thức một tác phẩm tùy thuộc hay thay đổi vào  các  góc độ và dấu mốc thời gian khác nhau.

#5 Comment By Nguyễn thị Hải Hà On 25/04/2010 @ 3:05 pm

Thật tình tôi rất ghét nhìn thấy những tác phẩm nghệ thuật như thế này và càng ghét hơn khi cứ thấy những cái tên danh tiếng được lôi ra để “dọa nhát” những người có thể bị chê là không có mắt thẫm mỹ, như tôi. Làm như cứ một cái tên danh tiếng là có thể đảm bảo cho bất cứ cái gì người ta nguệch ngoạc ra cũng đáng được công chúng thưởng thức.  Tôi không phản đối cái quan niêm thẩm mỹ của bất cứ ai, nhưng tôi phản đối tôi bị phải xem những cái tôi không muốn xem. Thử tưởng tượng giờ ăn trưa mở Da Màu để đọc mà đồng nghiệp hay boss đi ngang nhìn thấy thì thật là kỳ cục. Phim ảnh Mỹ tự do đủ kiểu nhưng họ có rating để báo động cho người xem để họ không mất thì giờ hay cảm thấy bị xúc pham.  Báo Playboy bán ở ngoài sập khi khách đến mua còn tế nhị gói bằng bao giấy nâu (tôi biết vì tôi đã từng đi mua báo Playboy về xem, hihi), thì Da Màu cần phải có “warning” rõ ràng hơn, cho một “scarlet letter” vào, thí dụ thế.  Tôi xem Da Màu là anh chị em như trong nhà nhưng anh chị em thì thỉnh thoảng cũng phải “bóp cổ” nhau cho bõ ghét.

#6 Comment By ĐẶNG PHÚ PHONG On 25/04/2010 @ 9:19 pm

Xin góp ý với Ô. Trình Trung Lập
Ông viết:* Trong câu : ” …………..cần có ít nhất hai yếu tố: khiếu thẩm mỹ và được giáo dục thẩm mỹ…..”, người đọc hiểu rằng đó là hai yếu tố bắt buộc chăng (ít nhất ! nếu không có không được !). Thực tế tôi thấy hoàn toàn ngược lại. Các nhạc sĩ lớn khi viết bài cho ca sĩ hát, hay dàn nhạc giao hưởng thì phải “đo ni đóng giày” cho ca sĩ và nhạc công, nghĩa là tìm cách đưa cảm xúc của mình vào trái tim quần chúng qua “cứu cánh” người biểu diễn. Đằng này theo ý Chị viết tôi hiểu rằng “muốn đến với tác phẩm của tôi bạn phải có “nghề”” chăng ”
Ông đã hiểu bà NT Từ Huy “muốn đến với tác phẩm của tôi phải có nghề” thì đúng rồi. Đúng vào cái tiền đề ông đã đưa ra là các nhạc sĩ lớn, hay giàn nhạc giao hưởng viết bài hát đâu cứ phải “đo ni đóng giày”. Họ sáng tác với/ vì muôn ngàn cách . Và, cho dù cách kiểu nào, khách thưởng ngoạn phải hiểu hay thích nên họ mới đến với tác phẩm được. Và theo tôi, hiểu và thích chắc phải có từ được giáo dục thẩm mỹ và có khiếu thẩm mỹ cho dù qua “cứu cánh người biểu diễn”.

#7 Comment By Trinh – Trung Lap On 26/04/2010 @ 4:31 am

Xin cám ơn Ông Đặng Phú Phong đã có quan tâm và góp ý tới ý kiến của tôi.
Trước tiên, tôi không rõ cụm từ “đâu cứ phải “đo ni đóng giày”” trong góp ý của Ông cho tôi là ý kiến của Ông hay Ông có chút nhầm lẫn cho rằng đó là ý kiến của tôi. Nguyên văn tôi viết là “phải “đo ni đóng giày”” nên tôi chưa thật sự hiểu ý của Ông lắm.
Nếu là đó ý kiến của Ông, thì tôi xin được giải thích thêm quan điểm của tôi :
Cụm từ “đo ni đóng giày” được sử dụng trong giới âm nhạc có ý muốn nói rằng : Các Nhạc sĩ lớn viết tác phẩm có chủ ý trước viết theo chất giọng, phong cách, sở trường, …… nói chung là những đặc điểm rất “personal”  của 1 người biểu diễn nào đó, nhằm làm cho tác phẩm được chuyển tải trọn vẹn đến người thưởng thức. Ở đây không tính đến yếu tố “technics/skill” của người biểu diễn, những kỹ năng hay kỹ thuật, 2 yếu tố mà có được từ giáo dục đào tạo mà diễn viên nào cũng có thể đạt được. Rồi thông qua cái thể xác của người biểu diễn, cái hồn tác phẩm đi vào tâm hồn khán thính giả . Đó mới là mục đích cuối cùng của người nhạc sĩ. Trong trường hợp này khán thính giả có khi hoàn toàn không có chủ ý định đi tìm “hứng lấy cái hồn của tác phẩm” mà có thể chỉ tình cờ trong 1 buổi hòa nhac, dạ vũ, party nào đó,….. tác phẩm của người nhạc sĩ đó đã rình rập và chui vào trong trái tim của người khán thính giả để ở lại trong đó ……… suốt đời ( chăng ?) !
Người thưởng ngoạn không nhất thiết phải được giáo dục thẩm mỹ gì theo tôi. Chẳng hạn, khi lần đầu tiên tiết điệu Bolero từ đâu mãi tận Châu Mỹ được các danh tài như Cố Nhạc sĩ Trúc phương, ….. đưa vào Việt nam cùng với các ca từ của ông ấy (mà nếu bây giờ xét ra những ca từ để đời đó là sai văn phạm truyền thống quá chừng) lại được mọi tầng lớp dân chúng mê đắm ngay, từ những những công chức trí thức có giáo dục thẩm mỹ hẳn hoi đến các bác xich lô, gái giang hồ,… chưa hề được 1 lần biết …….. chữ. Rồi thậm chí có những em nhỏ chưa 1 lần qua trường tình ái hay “trường đoạn tân thanh” (xin nói ngược chút xíu của đoạn trường tân thanh, hi hi) cũng nghêu ngao và âm thầm đi theo hiến thân cho âm nhạc.
Năng khiếu phải hiểu là khả năng sáng tạo hay tái tạo chủ yếu nằm ở đôi bàn tay , thanh giọng, động tác cơ thể, …….nói chung là đầu ra (output), chứ năng khiếu không phải là cái lỗ tai nghe, con mắt đọc hiểu,….. Đó là độ thẩm âm, thẩm thấu mà thôi, hi hi……nói chung là đầu vào (input).
Tôi nghĩ tác giả Từ Huy dùng rất nhiều khái niệm hơi lạ nên tôi mới có ý kiến hỏi lại nhưng rất tiếc Chị ấy không giải thích gì thêm…. hi hi
Tôi đưa ra khái niệm “đo ni đóng giày” nhằm nói lên thái độ của người nghệ sĩ, lúc nào cũng phải chân quý, mời gọi tự nhiên như triết lý của môn Ẩm thực vậy. Phải chiêu đãi những món mà thực khác thích chứ không phải “mình nghĩ người ta sẽ thích” hoặc “phải biết cách thích”, hi hi …..
Trở lại với ý sau cùng của Ông Đặng Phú Phong  : “Và theo tôi, hiểu và thích chắc phải có từ được giáo dục thẩm mỹ và có khiếu thẩm mỹ”. Như tôi đã trình bày ở trên : có thể hiểu mà không cần giáo dục, thậm chí dù chỉ là trường học cuộc sống bởi vì con người là 1 linh vật trong nghệ thuật. Có thể thích mà không cần phải có năng khiếu vì đơn giản 1 thứ là trái tim bên trong, còn thứ kia là món quà thiên phú hay quá trình khổ luyện mà con người nhận được và trao ban cho người khác.
Không biết những kiến giải của tôi có đi vào trọng tâm câu hỏi của Ông Đặng Phú Phong chưa. Rất cảm ơn Ông.
Kính !
TTL
Tái bút : Tôi cũng định hỏi thêm Chị Từ Huy nếu cần 1 nền giáo dục thẩm mỹ thì độc giả phải ghi danh học ở đâu, hay nếu không ghi danh được và trời không ban cho năng khiếu luôn thì “nghỉ chơi” với nghệ thuật luôn chăng ?
Rất chân thành khi chia sẻ ý này với Ông ĐPP !
TTL

#8 Comment By phan ngọc On 26/04/2010 @ 12:28 pm

Bác Trinh- Trung Lap ơi,
Nếu trên đời này có người khí chất cao cũng có người khí chất tầm phào, có người nhảy cao mét rưỡi lại có người nhảy chín mươi phân như tại hạ đây, thì tất nhiên trong độc giả cũng có người giỏi và có hạng kém.
Đã kém tất phải học.
Còn một số nhà văn đặc biệt và một số độc giả siêu hạng thì không cần học nữa.
Họ cho rằng văn thơ đâu có cắt nghĩa được. Hehe.

PN.

#9 Comment By ĐẶNG PHÚ PHONG On 26/04/2010 @ 9:42 pm

Thưa ô Trinh -Trung Lap
Tôi đã paste cụm từ “đo ni đóng giày” từ bài viết của ông, còn cụm từ “đâu cứ phải ” là của tôi . Có lẽ ông đọc không kỹ nên mới viết “đâu cứ phải “đo ni đóng giày”” do đó ông mới đặt câu hỏi với tôi.
Tôi xin nói rõ ý của tôi về vấn đề chúng ta bàn với nhau qua bài viết của N T Từ Huy là: Theo thiển ý, để hiểu thật sâu xa (có thể nói cường điệu một chút là đến nơi đến chốn) và thật sự yêu thích một tác phẩm nghệ thuật thì chúng ta phải được giáo dục và có năng khiếu về thẩm mỹ. Giáo dục ở đây không có nghĩa là phải đi dến trường lớp, qua sách vở, qua bàn luận …thì chúng ta cũng được giáo dục vậy. Còn nếu chúng ta cứ bảo rằng tôi thích tác phẩm đó vì tôi thích tác phẩm đó,thế thôi. Nghe cũng được . Nhưng coi bộ không xuôi lắm.
Về việc ông đem nhạc Bolero để giải thích , càng củng cố cho tôi tin rằng NT Từ Huy đã đúng. “…đưa vào Việt nam cùng với các ca từ của ông ấy (mà nếu bây giờ xét ra những ca từ để đời đó là sai văn phạm truyền thống quá chừng) lại được mọi tầng lớp dân chúng mê đắm ngay, từ những những công chức trí thức có giáo dục thẩm mỹ hẳn hoi đến các bác xich lô, gái giang hồ,… chưa hề được 1 lần biết …….. chữ. Rồi thậm chí có những em nhỏ chưa 1 lần qua trường tình ái hay “trường đoạn tân thanh” (xin nói ngược chút xíu của đoạn trường tân thanh, hi hi) cũng nghêu ngao và âm thầm đi theo hiến thân cho âm nhạc.”
Ông viết như vậy, xin cho phép tôi đặt ngược vấn đề, cho dù họ có học hay biết chữ thì họ cũng phải hiểu cái đã. Tại sao họ hiểu ? chính vì nó dễ hiểu , dễ tiếp cận. Và họ hiểu cũng do họ được giáo dục(bàn luận, như tôi đã nói ở trên).
. Nhạc cổ điển tây phương du nhập vào Việt Nam lâu hơn nhạc bolero nhiều thế mà cho đến nay phải nói rằng nó vẫn xa lạ không được nhiều hưởng ứng. Điều này có phải chăng là do người Việt Nam không đươc học hỏi về nhạc cổ điển tây phương nên không hiểu? Không hiểu nên không thích.
Xin cảm ơn ông đã góp ý lại góp ý của tôi.
DPP

#10 Comment By Trinh – Trung Lap On 27/04/2010 @ 5:56 am

*** Cùng Bác Phan Ngọc !

Dạ, khi nào Bác đi học thì ới dùm em trên Damau 1 tiếng Bác nhe, hi hi…

Thân !

TTL

*** Kính Ông Đặng Phú Phong

Xin phép tiếu lâm với Ông 1 chút cho ….. dễ hiểu, hi hi hi

Tôi xin trích 1 câu trong 1 bài hát phổ biến nhất của Nhạc sĩ Trúc Phương. Một câu mà vừa sai văn phạm vừa không thể hiểu được mà lại đã đưa bài hát trở thành Top ten thập niên đó của thế kỷ trước và sau này bị “Nhạc đỏ” gọi lại “Nhạc vàng”, hi hi hi

Nhạc phẩm : Nửa đêm ngoài phố !

….Buồn vào hồn không tên
Thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa bọn mình……….

Thú thật tôi hiểu chết liền đó !

Nỗi buồn không tên ?
Hay hồn không tên ?

hi hi hi

Thưa Ông Đặng Phú Phong !

Điều tôi muốn nói cuối cùng ở đây là mọi giải thích, suy đoán cho nội dung câu hát trở nên vô nghĩa vì Tác giả bài hát đã đi quá xa rồi…… Nghĩa là bài toán không có đáp án và như vậy không thể có giáo trình giảng dạy thẩm mỹ nào cả. Bàn bạc, thảo luận, … trong trường hợp này càng thêm …… khó hiểu và không có chuẩn mực nào để đi đến thống nhất ý kiến với nhau.

May mắn thay, các fan của Anh Trúc Phương cứ hát mặc dù chẳng hiểu gì cả (tôi không biết họ có muốn hiểu hay không nữa) trong già nửa thế kỷ nay.

Còn nhạc cổ điển thì theo tôi có người hiểu có người không hiểu. Nhưng sở dĩ như Ông cho biết cho đến nay đa số người nghe vẫn không thích vì như vầy : Chính sách marketing của các nhà sản xuất chương trình, tổ chức sự kiện, v.v… còn chưa nhạy bén. Thử nghĩ cả một buổi tối cuối tuần, khán thính giả nào dại gì đi mua 1 cặp vé cho người yêu với mình đi xem rồi vào trong đó nghe các phèn la, chuông, kèn, trống đánh gõ như … tra tấn mấy tiếng đồng hồ vậy đó. Họ đi 1 lần rồi …. ngán luôn, hi hi hi

Ngược lại, trong 1 vài tình huống khác việc sử dụng nhạc cổ điển lại có sức hút rất mãnh liệt, chẳng hạn phục vụ cho hành khách trên máy bay trong khi boarding, trước giờ hội khai mạc hội nghị, ….. nói chung là những lúc cần đem lại sự thoải mái tự tin cho người nghe. Hay thậm chí tiếng nhạc cổ điển nho nhỏ trong phòng lễ tân để chào đón du khách tại khách sạn hay đơn giản là ở những nơi mà tại đó người ta trống trải và không có gì để làm.

Xin đừng cho rằng như vậy lại phải giáo dục thẩm mỹ cho các nhà sản xuất chương trình, tổ chức sự kiện,… hay cho rằng làm như vậy là để cho người nghe nhạc cổ điển hiểu và trở nên thích. Không phải ! Như Tôi đây, đã nghe bản Moonlight Sonata của Beethoven cả ngàn lần mà vẫn không đặt vấn đề mình phải hiểu bài nhạc đó là gì. Đơn giản lúc tôi nghe là tôi đang sử dụng cảm xúc của Bethoven để ru tôi, có thể đang hân hoan hoặc đang lo lắng, hoặc đang nghe mà chẳng nghe gì cả. Và tôi cũng không biết Beethoven cảm xúc gì lúc viết bản giao hưởng đó.

Ông đưa ra nhạc cổ điển làm tôi càng tin rằng nhận định của Chị Từ Huy là sai. Quả nhạc cổ điển là 1 ví dụ sinh động cho trường phái “Có nghe ra điều gì” của tôi, hi hi hi.

Và Tôi, như những người am tường khác về nghệ thuật, bắt buộc phải trân trọng trường phái “Nghe – Hiểu” của Ông. Xin phép được tấu tên như vậy cho vui chút xíu với cả tấm lòng mến mộ ở nơi tôi, hi hi hi

Rất vui được Ông góp ý.

Kính Ông !

TTL
– 27.04.2010 vào lúc 5:54 am