Nguồn: Làng Văn số 78, tháng Hai 1991, trang 174 tới 177.
Với số lượng tác phẩm đỏ vượt Thái Bình Dương và đến tay người đọc ở các nước Tây phương, chúng ta – người đọc những tác phẩm ấy – nghĩ gì về thân phận của mình trong những cuốn sách nhuộm đỏ từ đầu đến đuôi nêu trên? Dù vô tình hay cố ý, những nhà văn như Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Phạm Thị Hoài và Nguyễn Mạnh Tuấn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm khi đã vẽ lại những con người miền Nam hết sức thô lỗ, hủ lậu, và trên hết, thấp hèn hơn con người miền Bắc. Họ giữ đúng một quy luật: Kẻ chiến thắng có toàn quyền xét đoán thân phận kẻ chiến bại, trong đời sống cũng như trong văn chương. Dưới mắt họ kẻ chiến bại bị khinh bỉ là chuyện đương nhiên và không ai hơi đâu đi tìm lý do để giải thích thái độ phán xét cực đoan ấy.
Trước hết, chữ “người miền Nam” trong bài này được định nghĩa như những người sinh trưởng từ vĩ tuyến 17 trở vô Nam và những người miền Bắc đã vượt thoát chế độ cộng sản năm 54 hay trước đó. Các cán bộ cộng sản miền Nam tập kết ra Bắc không được kể như người miền Nam vì lý do đơn giản họ không cùng chiến tuyến với người miền Nam.
Trong tiểu thuyết, nhân vật là một trong những yếu tố chính để quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Những tác phẩm quốc doanh của cộng sản in trước 75 hoặc sau 75 vài năm, dĩ nhiên chẳng ai rỗi hơi bàn tới. Nhân vật người miền Nam trong khoảng thời gian đó thường được các nhà văn cộng sản mô tả có bề ngoài giống nhau, cá tính không khác nhau bao nhiêu, và bản chất lại càng thê thảm hơn nữa. Nếu là thanh niên không đi lính hoặc không nhảy núi, họ được coi là thành phần lưng chừng, lười biếng, không có ích cho xã hội. Nếu đi lính, họ đương nhiên bị kết án có nợ máu với nhân dân. Nếu là đàn bà, chắc chắn họ đều dễ bị tuột quần hoặc tự ý cởi quần mà không đòi hỏi điều kiện gì cả! Những tác phẩm ra đời sau năm 1986, được coi như năm “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, một số có phần hòa hoãn hơn. Những nhà văn cộng sản bớt coi người miền Nam như một đám nô lệ, vong thân vong bản, nhưng đâu đó trong tác phẩm của họ, vẫn ẩn chứa nếp nghi ngờ, lòng khinh khi, và thái độ xa lạ đối với dân miền Nam.
Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Phạm Thị hoài và Nguyễn Mạnh Tuấn tiêu biểu cho đám văn sĩ miền Bắc và cái nhìn của họ, mặc dù tương đối cởi mở hơn, được coi như đại diện cho một tầng lớp tri thức khi nghĩ về người miền Nam. Và họ đã nghĩ gì?
Ly Thân (1989), cuốn tiểu thuyết được nói đến nhiều nhất ở hải ngoại, đánh dấu một bước ngoặt khá quan trọng về sự xét lại của một số nhà văn hải ngoại đối với nền văn học trong nước. Nhìn chung, xét về mặt nghệ thuật, Ly Thân không có gì xuất sắc cả. Bất cứ một nhà văn trung bình nào nếu đã từng sống với cộng sản, đều có thể viết được một cuốn tiểu thuyết tương tự như vậy mà không mất nhiều công suy nghĩ hoặc tham khảo. Tác giả chỉ lập lại tất cả những mánh khóe, thủ đoạn như kiểu Machiavelli mà ai đã từng sống với cộng sản đều biết.
Hơn nửa phần đầu của Ly Thân lấy bối cảnh miền Bắc và non nửa phần sau là miền Nam. Tuy đã cố gắng tránh né không đụng tới nhân vật miền Mam, Hảo cũng đưa ra một nhân vật phụ: Ngọc Hương, trong nửa phần sau. Để giới thiệu nhân vật, Hảo tả Ngọc Hương vào khoảng “ba mươi sáu, ba mươi bảy tuổi… mặt sáng rỡ, mắt lá răm to sắc kẻ chì viền hơi đậm, lông mày tỉa tót, môi son rực, mũi cao như đã sửa, móng tay móng chân đánh màu vảy bạc óng ánh…” (tr. 245).
Ngọc Hương đã từng học “trường nữ Gia Long rồi vào đại học Văn khoa” (tr. 247), và đã có thời lấy chồng bác sĩ, có một đứa con với người này, sau ly dị và người chồng bác sĩ di tản sang Mỹ năm 75. Với một nhân vật khá đẹp, học thức và trưởng giả như Ngọc Hương, Hảo đang tâm để Ngọc Hương tìm đến Trần Hưng, nhân vật chính, trong một đêm và tự ý dâng hiến thể xác cho y. Không biết Hảo hiểu người đàn bà miền Nam đến mức độ nào, nhưng cố tình gán ghép cốt truyện để đưa đến kết quả như vậy thật sai lầm và không đúng thực tế chút nào. Trước hết, người đàn bà miền Nam đâu hạ giá quá vậy! Sau nữa, tận thâm tâm một người đàn bà tri thức miền Nam đâu để một tên cán bộ miền Bắc giày vò nếu y không dùng đến võ lực hay thủ đoạn này nọ. Với một tác phẩm có luận điệu được coi là “phản kháng” cao độ, Trần Mạnh Hào vẫn không thoát khỏi cái nhìn định kiến đối với người đàn bà miền Nam.
Dương Thu Hương và Phạm Thị Hoài cũng không đi xa hơn Trần Mạnh Hảo bao nhiêu. Về ý tưởng và chủ đề, Phạm Thị Hoài có phần trội hơn Dương Thu Hương, nhưng xét về bút pháp, ngôn ngữ, Dương Thu Hương gác Phạm Thị Hoài khá xa. Nếu Hương giấu hết được những tác phẩm xuất bản trước năm 1986, chắc nhiều người đỡ nhọc công kết án hoặc xếp Hương vào hàng ngũ bên này hay bên kia. Tuy nhiên, tuyển tập truyện ngắn Chân dung người hàng xóm (1985) đã nói khá rõ quan điểm của tác giả về dân miền Nam. Mỹ Dung trong Loài hoa biến sắc (1975), vợ chồng Sáng trong Thợ làm móng tay (1978) và người thiếu phụ không tên trong Những bông bần ly (1977) thật đúng là những con người bệ rạc, thiếu ý chí và không đủ nghị lực được tác giả đem những người này tiêu biểu cho đám dân miền Nam. Mỹ Dung một cô gái bao không hơn không kém, được tác giả gán ghép cho một chút học thức (có thể đi dạy học), để rồi dùng những thủ thuật khác đẩy Mỹ Dung vào con đường ê chề, tủi hổ. Vợ chồng Sáng còn thảm hơn nữa. Đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu Sáng lúc ấy còn ở miền Bắc như một cậu bé có lý tưởng, ham hoạt động, hăng say dấn thân. Nhưng khi Sáng theo mẹ và bố dượng (một người Công giáo làm nghề buôn chuyến) di cư vào Nam, y biến thành một anh thợ làm móng tay “lấy một người đàn bà vì của cải, vuốt ve những người đàn bà khác vì thèm khát. Lúc nào đó có thể được, hắn đi với gái, hắn hát những bài sầu buồn, xem phim con heo, ảnh khiêu dâm”. Vợ hắn, một người đàn bà miền Nam “có bộ ngực quá cỡ, nó đầy ứ lên dưới lần vải như thể hai trái dừa cỡ lớn, núng nính theo mỗi bước đi”. Rồi đến người thiếu phụ không tên ở Nha Trang, tác giả cố tình gán ghép cho nàng phải lấy một người chồng gấp đôi tuổi. Xong xuôi, tác giả phán một câu làm bực mình người đọc. Dương Thu Hương viết: “Còn chị (nhân vật xưng ‘tôi’ trong truyện), chị sống ở miền Bắc, nơi không có một thế lực đen tối nào tồn tại để uy hiếp hạnh phúc con người, nơi không có một bức tường nào ngăn trở con đường đi đến cuộc sống chân thực”. Đọc xong câu này, ai nấy lạnh người. Dương Thu Hương thường tự hào: “Tôi đã viết bằng tất cả tấm lòng chân thật”. Vậy thì sự thật nào tác giả muốn đưa ra ở đây? Dĩ nhiên, bất cứ nhà văn nào cũng có toàn quyền thay đổi quan niệm sống hay nhận định chủ quan ban đầu. Nhưng ngay cả những cuốn tiểu thuyết xuất bản sau năm 1986 (Quãng đời đánh mất, Bên kia bờ ảo vọng), tác giả cũng chưa hề tạo dựng lại nhân vật miền Nam đúng như bản chất của họ, hay nói khác hơn, phục hồi nhân phẩm cho họ. Nói đúng ra tác giả vẫn cố tránh né các nhân vật miền Nam, một loại người mà trước đây tác giả khinh bỉ. Mọi người đều đồng ý: hư cấu và trí tưởng tượng đều cần thiết cho nhà văn, nhưng cố tình hạ nhục những người không có “vũ khí” chống đỡ lại trong văn chương là một hành vi của những nhà văn tồi. Ta có thể hò hét, reo mừng khi Dương Thu Hương dựng lên những nhân vật đảng viên tham nhũng, hối lộ (cùng lắm đấy cũng chỉ là những sự thật không thể chối cãi được), nhưng ta cũng không thể chấp nhận khi tác giả tỏ ra quá xa lạ, bất công đối với dân miền Nam. Nói cho cùng, nếu gán cho Dương Thu Hương nhãn hiệu bồi bút cũng không quá đáng. Thực vậy, truyện Chân dung người hàng xóm viết theo chỉ thị để tuyên truyền dân chúng vùng biên giới Việt-Hoa chống lại “bọn bành trướng Trung Quốc” trong cuộc chiến cuối thập niên 70 là lời tố cáo hùng hồn nhất. Đọc xong truyện này, người đọc không thể không nhủ thầm “đúng là tên bồi bút thứ thiệt!”
Mặc dù lấy bối cảnh miền Bắc, Phạm Thị Hoài cũng cố tình nhét một nhân vật lai Mỹ trong Thiên sứ (1989). Đối với Hoài, “cô nhân tình mười chín tuổi, 50 phần trăm gốc Texas, chuyên sống nhờ các hộp đêm và phòng trà Sài Gòn từ năm lên mười…” là một sản phẩm tất yếu của xã hội miền Nam mà người Mỹ đã bỏ lại sau cuộc chiến. Chúng ta đồng ý, cô gái lai này có thật ở xã hội miền Nam, nhưng đưa ra một nhân vật mất hết nhân phẩm như cô này, cho cô ta ngủ với người này, làm tiền với người khác để đại diện cho phụ nữ miền Nam, không biết Hoài có tự thẹn với sự bất công của mình không? Mang thành kiến nặng nề như thế biết đến bao giờ Hoài mới có cái nhìn thành thật đối với xã hội miền Nam. Có lẽ khi mô tả tình cảm của anh kỹ sư đã từng du học ở Nga về với cô gái lai Mỹ qua đoạn văn: “Huy động mọi khả năng biện bạch cho cô, anh vẫn không dứt nổi cảm giác khinh bỉ, cảm giác của một kẻ sạch sẽ lương thiện trước rác rưởi”, tác giả đã mô tả đúng nhất tâm lý của chính mình đối với người miền Nam.
Trong đám văn sĩ cộng sản, có thể nói Nguyễn Mạnh Tuấn là nhà văn xuất sắc nhất. Mặc dù không thích y, người viết phải công nhận rằng y có tài. Y viết cẩn thận, nội dung cân bằng, bút pháp uyển chuyển, ngữ pháp điêu luyện, bối cảnh rộng lớn. Có nhiều vấn đề y hiểu khá thấu đáo như nông nghiệp, kỹ thuật trồng cà phê, hệ thống chức vụ binh quyền, giai cấp thống trị và bần cùng, nguyên nhân của sự thất bại về kinh tế cũng như chính trị của cộng sản. Nói tóm lại, y có một số vốn kiến thức tổng quát khá vững để thao túng trong tiểu thuyết. Tuy nhiên, tài năng thì có nhưng ngay thẳng thì không. Nói cách khác, y chỉ là một tên bồi bút thông minh hơn những tên bồi bút khác. Y đối xử với những nhân vật của y bằng những công thức có sẵn, bằng lòng căm hận luôn luôn luôn hiện diện trong y mặc dầu y vẫn lên tiếng đề cao tình thương, lòng cao thượng. Trong bài Vài ghi nhận về ngành xuất bản tại Việt Nam, Thế Uyên gọi y là “nhà văn thực dân đỏ”. Hiếu vậy cũng được. Nhưng chắc chắn, y là một tên mác-xít thứ thiệt. Y thuộc kinh điển Karl Marx như người Công giáo thuộc kinh. Trong Cù Lao Tràm, có nhiều đọan y nhét vào miệng nhân vật của y những câu sặc mùi Marxist.
Trước khi đi sâu vào tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn, có lẽ nhận xét của Thế Uyên về y tương đối đầy đủ nhất. Thế Uyên viết: “Còn đối với nhân dân miền Nam thì Nguyễn Mạnh Tuấn coi thường, coi như đám dân mán mọi thô sơ trụy lạc, không một cái gì có thể thương được, xài được. Còn đối với quân nhân công chức chế độ cũ thì cách thế nhắc tới của tác giả này giống như cách thế của các nhà văn Mỹ chủ trương ủng hộ chế độ nô lệ nhắc tới dân da đen ở miền Nam nước Mỹ trong thế kỷ 19”.
Với một độc giả trung bình người miền Nam, khi đọc Tuấn, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự láo khoét của y. Y quan sát xã hội miền Nam khá kỹ, để rồi chính y lại phản bội những gì y chứng kiến hoặc thu thập được từ chính cái xã hội đã ban phát cho y. Y công nhận trên giấy trắng mực đen (Những khoảng cách còn lại) bằng tiền đề xã hội miền Nam giàu có thực sự. Nhưng viết quanh co một hồi, y tìm mọi lý lẽ để dẫn chứng sự phồn vinh của miền Nam là giả tạo và nâng cao sự bần cùng đói rách của miền Bắc như một thực tại mà trong đó, lý do hoàn toàn tại chiến tranh gây nên chứ không phải do sự dốt nát của đám cán bộ lãnh đạo miền Bắc hoặc do mớ kinh điển cổ hủ của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cù lao chàm (1985) viết theo lối tự thuật, lấy bối cảnh một xã ở vùng Bốn. Người kể là một thiếu phụ tên Năm Trà. Năm Trà ăn cơm quốc gia nhưng thờ ma cộng sản. Thị được người quốc gia đào tạo, học hết trung học, nhưng rồi chính thị lại dẫn quân cộng sản về dày lên quê cha đất tổ. Tuấn đưa thị lên như một thứ người hùng trong công cuộc cải tổ nông nghiệp ở vùng Bốn. Tuấn nhất quyết cho rằng, để nền kinh tế trong một quốc gia tiến truyền, phương pháp duy nhất là lối làm ăn tập thể. Và con cờ của y là Năm Trà. Ngoài Năm Trà còn một số nhân vật phụ, cũng có lý tưởng cộng sản, Tuấn đối xử với những nhân vật miền Nam khác hết sức nhỏ mọn. Y coi họ như một đám thất học, ngu dốt và là nguyên nhân đưa đến sự bệ rạc, thụt lùi của kinh tế trong nước. Cùng một lúc, y cố tình ve vuốt, mời mọc những nhân vật miền Nam khác, mà theo y, còn xài được. Y nhét vào đầu nhân vật y những tư tưởng không ai chấp nhận nổi. Chẳng hạn với ông ba Hỷ, người vùng Bốn, vì không muốn con gái mình, Sáu Mỵ, “rơi vào tay mấy thằng lính ngụy, liền cho lên cứ tham gia du kích”. Đúng Tuấn là một tên ác hơn nhiều tên ác. Đảng đã bóc lột người vùng Bốn sạch bách rồi, có còn gì đâu để bóc lột được nữa. Nhưng bóc lột không cũng chưa hạ dạ những người như Tuấn, y còn tiếp tục lừa gạt người miền Nam một cách trắng trợn. Đọc Cù lao tràm, người đọc có cảm giác như một cô gái trinh nguyên bị một tên sở khanh lừa gạt lấy sạch của cải, đã vậy, trong khi cưỡng hiếp nàng, y vẫn nói những lời nhân nghĩa. Cô gái chỉ xin y đừng nói nữa, và trả lại quần để nàng về với gia đình mà không hổ thẹn với làng xóm. Dĩ nhiên, yêu cầu nhỏ mọn của nàng cũng bị y từ chối. Tuấn chính là tên sở khanh vừa kể. Y tiếp tục lừa gạt người miền Nam trong khi bộ mặt thật của Đảng đã hiện ra quá rõ, khó lòng che giấu được ai. Y chống đỡ cho Đảng một cách tuyệt vọng, và càng chống đỡ, y càng để lộ quá nhiều khuyết điểm. Chính y tuyên bố: “Nếu các tác phẩm mình viết ra không ích gì cho chân lý cuộc sống thì nhà văn tồn tại làm gì giữa xã hội” (Cù lao tràm, cuốn 2, trang 17). Câu nói này đã phỉ nhổ vào tư cách “nhà văn” của chính Nguyễn Mạnh Tuấn.
Những khoảng cách còn lại (1984) cũng không hơn gì Cù lao tràm. Y cố gắng tạo một vài nhân vật lý tưởng như ông Sĩ, Hà, để rồi y đưa vào một lô những nhân vật miền Nam xảo trá, gian lận như bà Thuận Thành, bà giáo, Phi Hùng. Có lẽ chỉ một nhân vật sống thực nhất trong cuốn này là Hải, con bà Thuận Thành và ông Sĩ. Hải theo cha ra Bắc tập kết lúc còn nhỏ. Sau 75, trở về Nam, hắn liền tìm mọi cách để giữ lại tài sản cho mẹ, không cho nhà nước biến thành hợp doanh. Hắn quá hiểu cộng sản. Những gì cộng sản đã cướp đoạt thì đến trời cũng không lấy lại được. Hải dạy mẹ cách qua mặt nhà nước, đừng tin vào những gì cộng sản nói. Nhưng dĩ nhiên phải, Tuấn đâu để những nhân vật như vậy yên ổn. Y tìm mọi cách hành hạ Hải để thoả lòng tự ti mặc cảm của một kẻ nghèo từ nhân cách đến tâm hồn.
Miền Bắc quá nghèo, bây giờ lại nghèo thêm sau bao nhiêu năm áp dụng phương sách kinh tế của Marx và Lenin. Miền Bắc hoàn toàn trái ngược với miền Nam. Chính Tuấn cũng ghi nhận sự phồn vinh của miền Nam qua lá thư Hải gửi cho vợ, Hà, ở miền Bắc: “Đường Sài Gòn tràn ngập xe hơi và xe gắn máy. Về đêm, đèn pha xe hơi loang loáng trên mặt đường nhựa rộng, phẳng lì, khiến người ta liên tưởng chính xác về hình tượng thường được so sánh: hòn ngọc của viễn đông. Sài Gòn thừa thãi hàng tiêu dùng rẻ, đẹp và hiện đại. Người Sài Gòn rất biết ăn mặc… Đời sống vật chất trong mỗi gia đình rất cao. Ti-vi, tủ lạnh, xe gắn máy, máy khâu… đều là những vật sở hữu phổ biến trong các gia đình bình thường. Các chợ đầy ắp các loại thực phẩm tươi sống. Thịt, cá, rau, hoa trái ê hề với những giá phải chăng”. Biết thì biết vậy, chứ Tuấn đâu bao giờ chấp nhận đó là một xã hội mà mọi người đều thích hợp, hoặc ít nhất phải dễ dàng sinh sống. Y muốn mọi người phải nghèo, nghèo như dân miền Bắc để hiểu nỗi nhọc nhằn qua lao động sản xuất. Đọc đến đây dĩ nhiên phải ai cũng ứa gan. Người ta trách Tuấn thì ít, nhưng người ta trách cái xã hội đã đào tạo ra những con người cực đoan, xảo trá như Tuấn thì nhiều.
Có hai khuyết điểm rõ rệt trong tiểu thuyết của Tuấn. Thứ nhất, y tạo dựng hai loại nhân vật rất riêng biệt và người đọc có cảm giác như hai loại người này sống ở hai hành tinh khác nhau, và nếu họ có nói chuyện với nhau thì đó là điều vô tình chứ không phải vì lý do sinh tồn hoặc liên hệ giữa người và người. Hạng thứ nhất đạo mạo, lý tưởng, giàu lòng nghĩa hiệp, lòng nhân từ, và trên hết, họ phải là người cộng sản. Người thứ hai gồm những ai không nằm trong thành phần thứ nhất và họ thường là dân miền Nam. Hạng người này ích kỷ, ngu dốt, lười biếng và luôn luôn tìm cách chống phá cách mạng. Sau khi phân chia rõ rệt hai loại nhân vật như vậy, Tuấn quyết định sẽ giúp đỡ tận tình hạng nhân vật thứ nhất. Đối với hạng thứ hai, sau một thời gian cho họ thành công, Tuấn tìm mọi cách dìm họ xuống bùn, hoặc ít nhất phải làm cho họ thấy chân lý cách mạng. Dĩ nhiên, đây là loại tiểu thuyết sặc mùi tuyên truyền. Nhưng Tuấn khôn lắm, y chống đỡ cho hạng nhân vật thứ nhất bằng lý thuyết và hành động chứ không phải bằng những câu nói giáo điều cũ rích. Đầu tiên, y xây dựng nhân vật trên căn bản giáo điều, để rồi biến giáo điều thành phương pháp hành động dựa theo biến chuyển giai đoạn của xã hội.
Khuyết điểm thứ hai của Tuấn là y rất thích tạo nên những nhân vật trí thức, nói cách khác, có bằng cấp. Hầu hết nhân vật của y đều có bằng phó tiến sĩ, cử nhân, kỹ sư hoặc tệ lắm là tú tài. Không biết y tìm đâu ra chừng đó thứ bằng cấp cho một xã hội thiếu ăn thiếu mặc như vậy, nhưng đây là một thực tại tối thiểu để Tuấn quyết định nhân vật đó tốt hay xấu. Tuy vậy, chính y lại mâu thuẫn với chính mình khi chê bai các nhà văn miền Nam bằng một giọng điệu xấc xược: “Trăm thằng viết văn Sài Gòn cũ, thì chín mươi chín thằng tả đàn bà đều mi dài cong, mắt to ướt, môi mọng đỏ, mấy đứa lá cải còn ham bập cả vô mông, ngực các ả, chải chuốt chi li. Để có chuyện hấp dẫn, thế nào cũng dích dắc yêu đương tay ba, tay tư, ướt át, rồi ngoại tình, rồi tan vỡ, rồi tự sát, đánh ghen, đâm chém sướt mướt, buồn thảm, bế tắc, hết viết mấy anh tiểu tư sản thở dài lại viết đến lính chiến, đĩ điếm, lưu manh… quen tay, quen mắt rồi. Bây giờ xin mời quý ông quý bà dẹp tiệm hết. Viết về công nhân và thợ thuyền máy móc, kềm búa… nộp lên mười bài, bỏ chín, còn lại một sửa hai phần ba về lỗi câu, lỗi từ, lỗi nội dung” (Những khoảng cách còn lại tr. 159. Y bảo phải đề cao công nhân, thợ thuyền máy móc, nhưng chính y lại từ chối, không đưa hạng người này lên thành nhân vật chính hoặc cho họ chút kiến thức hay quyền bính để tạo cân bằng trong xã hội vô sản.
Tóm lại, tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn phản ảnh phần nào xã hội Việt Nam đương thời, nhưng phần thành thật quá ít so với những trang dài ngụy biện của tác giả. Tiểu thuyết cần trung thực, cần xây dựng trên căn bản quan hệ giữa người và người, giữa người và xã hội chung quanh, hoặc xung đột nội tâm trong chính một cá nhân. Hư cấu chỉ là đoạn đường ngắn để đưa đến đoạn đường hiện thực dài hơn ở phía sau. Nếu phản bội cốt truyện thì đừng phản bội nhân vật. Đằng này, Tuấn phản bội cả hai.
Nếu phê bình đứng đắn, Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Mạnh Tuấn vẫn chưa đóng góp chút nào trong việc tạo dựng những nhân vật miền Nam biết hỷ, nộ, ái, ố như bao nhiêu người khác. Họ chỉ nhìn vào bề trái của xã hội miền Nam rồi sau đó tiêu-cực-tả, cực-đoan-xét và vô-luân-hóa dân miền Nam. Nếu như những nhà văn miền Nam trước đây có viết về bề trái của xã hội, điều mà nhiều nhà văn đã làm, họ chỉ mong muốn dựng lên một cái gì sống động, thực tế trong tiểu thuyết của họ và ao ước một xã hội công bình, tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cùng một việc, Hảo, Hương, Hoài, Tuấn có ý đồ khác hẳn. Họ cố tình đè bẹp, chà đạp lên nhân phẩm dân miền Nam để chứng minh họ luôn luôn đúng và cuộc chiến thắng của họ hoàn toàn lý tưởng. Họ khả ố ở chỗ, tấn công những người mà họ biết chắc không có gì chống trả lại. Tiểu thuyết của họ đầy dẫy căm hờn, oán ghét, trách móc dân miền Nam vô ơn sau khi miền Bắc đã đổ bao nhiêu xương máu để “giải phóng” Sài Gòn. Thật ra, họ vẫn bị lúng túng khi nhận thức rõ ràng rằng dân miền Nam có mang ơn gì của họ đâu. Họ tự ý tấn công để rồi nhận lấy sự khinh bỉ, oán ghét của dân miền Nam. Ở điểm này, hai chữ “giải phóng” phải đổi thành hai chữ “xâm lược” thì đúng hơn.
Nếu thực vậy, văn-chương-xâm-lược có gì đáng đề cao chứ?
Sách trích dẫn và tham khảo:
Dương Thu Hương: Chân dung người hàng xóm, NXB Văn Học, 1985; Bên kia bờ ảo vọng, in tại hải ngoại, 1990; Quãng đời đánh mất, in tại hải ngoại, 1990.
Hoàng Lại Giang: Nỗi bất hạnh tình yêu, in tại hải ngoại, 1990.
Machiavelli, Niccolò, The Prince, Trans. Luigi Ricci. New American Library, 1980.
Nguyễn Huy Thiệp: Những ngọn gió Hua Tát, in tại hải ngoại, 1990.
Nguyễn Mạnh Tuấn: Những khoảng cách còn lại, NXB Văn Học, 1984. Cù lao tràm, NXB Hải Phòng, 1985 hai tập; Yêu như là sống, NXB Hải Phòng, 1988; Ngoại tình, in tại hải ngoại, 1990. Phạm Thị Hoài: Thiên sứ, NXB Trẻ, 1989.
Thế Uyên: Con đường qua mùa đông, Xuân Thu, 1990; Vài ghi nhận về ngành xuất bản tại Việt Nam, tạp chí Văn Học tháng 5, 1989.
Trần Mạnh Hảo: Ly thân, in tại hải ngoại, 1990.