Tôi nhớ, thuở nhỏ, đọc được ở đâu đó một bài viết về mạo từ trong tiếng Việt. Tác giả, không nhớ là ai, cho biết, Việt ngữ chỉ có một mạo tự giống đực duy nhất là "đực rựa", còn lại rặt giống "cái". Không hiểu bài tiểu luận ngôn ngữ ấy được viết theo khuynh hướng nào, nghiêm túc hay chỉ là một kiểu biếm ký, đọc lúc trà dư tửu hậu. Chỉ biết, tôi đã nghĩ rằng, kiểu lý luận ấy có thể tin được!!!
Giờ đây, tôi mạn phép thay mặt "cái" giống đực duy nhất trong mớ ngổn ngang "mạo từ" của Việt ngữ, bộc bạch dăm ba nỗi băn khoăn: "Cái" của những "cái bàn", "cái nồi", "cái chổi", và nhiều rất nhiều "cái" khác nữa, lẽ nào được dùng để ám chỉ phái tính, như la đối với le trong tiếng Pháp, die đối với der trong tiếng Đức, cho sự vật trong tiếng Việt được chăng? Còn phái tính của những "mạo từ" khác trong Việt ngữ là gì? Chẳng lẽ gom hết chúng lại cho vào "giới thứ ba", nhập nhằng chẳng ra làm sao, như mạo từ trung tính das trong Đức ngữ? Sao thấy vừa đáng thương vừa bất công cho chúng quá! Chúng lỡ vướng tội gì mà lại bị "cái" giống người Việt ít ỏi ấy bố thí cho thứ phái tính lửng lơ, tuyệt vọng ấy?
Khi tôi lâm vào tình huống là "giáo viên Việt ngữ" cho một số người bản xứ tại Đức, tôi phải tìm hiểu thêm thì biết ra, không thể gọi những "cái", những "con" và những trợ từ khác là mạo từ như le, la hay der, die, das được. Mà, như một vài quyển văn phạm Việt ngữ dành cho người Đức, tác giả gọi đó là những Klassifikatoren: "Phân loại từ", hay ngắn gọn là "loại từ".
Trong bài viết này, tôi xin có đôi lời về một số loại từ điển hình.
"Cái" và "con" là hai dạng loại từ thông dụng nhất trong tiếng Việt. Nhiều tĩnh vật được mang loại từ "cái": cái nhà, cái tủ, cái đèn, cái áo, cái kéo, cái chén, cái muỗng, v.v… Nhưng đôi khi một số từ nêu trên cũng có thể là: "căn" hoặc "ngôi" nhà, "cây" hoặc "ngọn" đèn, "chiếc" áo, "cây" kéo. Không hiểu nguyên nhân gì đã dẫn đến những thay đổi trên? Chỉ có thể giải thích theo kinh nghiệm thuần cảm tính: cho "nhà" thì "cái" là loại từ tổng quát, còn "căn" có thể được hiểu là một trong một dãy nhiều nhà san sát; qua tới "ngôi", nghe ra đã văn vẻ và bề thế hơn nhiều lắm. Thí dụ: "Ngôi nhà thừa tự của dòng họ Nguyễn Bửu nằm trong vườn cây êm ả, nhiều bóng mát." Hoặc: ngôi chùa, ngôi nhà thờ, ngôi biệt thự. Hoán vị "cái" thay cho "ngôi", văn pháp thấy đã… xuống cấp vài ba mức. Còn "căn"? Có thể dùng được trong vài trường hợp, nhưng xét kỹ, thấy khang khác, chỉ còn là một phần của "ngôi" mà thôi.
Nhiều loại từ sử dụng trong tiếng Việt đậm nét biểu tượng, là điều không thấy có trong các ngôn ngữ khác (Ở đây, tôi xin khe khẽ đặt câu hỏi, rằng tôi có võ đoán không?). "Cây" là một trong vô số trường hợp điển hình. Tất cả những gì hội đủ một hoặc tất cả các điều kiện: thăng thẳng, đầu tà đầu nhọn, có tán rộng gợi hình một thân cây, mang loại từ "cây": cây đèn, cây viết, cây đinh, cây kim, v.v… Nhưng tại sao lại là "cây cầu"? Tôi đoán, vì dân mình ở quê thường dùng thân hay gỗ cây làm cầu bắc ngang sông.
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi"
Và, đặc biệt với "đèn", vì có nguyên thuỷ dính líu với "lửa", nên mang thêm loại từ "ngọn". Mặc dù suy xét chi ly, thấy "cây đèn" và "ngọn đèn", tuy cùng ngữ tộc nhưng ý nghĩa có hơi khác: "Trò Tèo, con nhà nghèo nhưng siêng học, đêm nào cũng ngồi học bài bên cây đèn dầu thắp ngọn leo lét."
Từ "cầu" còn sính thêm loại từ "chiếc". Cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng có sáng tác bài "Chuyện một chiếc cầu đã gãy" vang danh một thuở: "Một ngày vào thuở xa xưa trên đất thần kinh. Người bỏ công lao xây chiếc cầu xinh…"
Thói thường, "chiếc" là loại từ dùng để chỉ trường hợp riêng lẻ của những sự vật có đôi: chiếc giày, chiếc đũa, chiếc nhẫn (cưới), chiếc bông tai, …; và các phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp, chiếc xe bò, chiếc thuyền, chiếc máy bay, … Nhưng tại sao lại là "chiếc cầu", "chiếc áo", "chiếc hình"? Gượng, có thể giải thích, vì cầu, áo là những vật thể có nhiều cơ phận đôi chăng? Còn "hình", lẽ ra phải dùng loại từ "tấm" hoặc "bức", tại sao thỉnh thoảng cũng có thể nói là "chiếc hình"? Không biết giải thích sao cho chính xác.
"Chiếc" cũng còn là loại từ dùng cho "lá" (vì lá thường có dạng lá kép chăng?), chẳng hạn "Chiếc lá thu phai", tựa một ca khúc tuyệt vời của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. "…Mùa thu qua vội. Mười năm tắm gội. Giật mình ôi, chiếc lá thu phai…" Mà "lá" lại là loại từ định hình cho những vật thể mỏng, nhẹ, phất phơ: lá bài, lá thư, lá cờ, … Hoặc gợi hình chiếc lá: "lá gan", "lá phổi", "lá sách" là những bộ phận trong cơ thể con người, sẽ được bàn thêm ở phần dưới bài viết.
Nhưng, ngộ nghĩnh (hay cắc cớ) ở chỗ, một trang giấy cũng mỏng, cũng nhẹ, cũng phất phơ lại không được ban cho loại từ "lá", mà phải nói là "tờ giấy" mới đúng. Từ đó suy ra một số loại từ đồng dạng: tờ báo, tờ thư (còn gọi là "lá thư" hoặc "bức thư", nhưng khi thư được gói trong phong bì, có lẽ nên nói là "phong thư", nghe đúng hơn).
Nhiều tờ giấy đóng dán lại với nhau, có thể cuộn hay cuốn lại thành "cuốn sách", "cuốn vở", … Đặc biệt dành riêng cho những danh từ này có loại từ "quyển". Để rồi, chỉ cần nghe nói tới "quyển", ta có thể hình dung ra ngay đó là cái gì: quyển nhật ký, quyển tiểu thuyết, quyển tự điển, v.v… Bàn rộng ra, tập hợp của nhiều "quyển", tiếng Việt nói "bộ" hay "pho": Bộ sách, bộ tiểu thuyết, pho tự điển, pho kinh … "Bộ" cũng còn là loại từ đuợc dùng để chỉ định nhiều phần riêng lẻ thường được gộp chung với nhau: bộ bài, bộ chữ, bộ chén dĩa, bộ ấm trà, bộ quần áo, bộ bàn ghế, v.v…
Thay vì "bộ bài", "lá bài", người miền Bắc nói "cỗ bài", "cây bài", được thi sĩ Hoàng Cầm thầm thì gói ghém trong bài thơ "Cây tam cúc":
"Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
…
Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì … "
Khi bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc cùng những "Lá diêu bông", "Qua vườn ổi" (tựa đúng của bài thơ là "Quả vườn ổi"), v.v…, cho thâu âm vào giữa thập niên 1980 ở ngoài nước kèm theo lời lý giải cường điệu và cực kỳ "phản động" của chính nhạc sĩ, đã khiến thi sĩ ở trong nước một phen khốn đốn [1]. Bỏ qua những lời bình…trật lất, cá nhân tôi cho đó là một trong những ca khúc phổ thơ đẹp nhất của tân nhạc Việt nam.
"Bài" cũng là loại từ được dùng cho những danh từ có liên quan tới chữ viết: bài báo, bài hát, bài thơ, … Đôi khi "bài" đứng trơ trọi một thân một mình vậy thôi, như tựa ca khúc "Bài cho em" của nhạc sĩ Từ Công Phụng; nhưng nghe qua, hiểu ngay ý nhạc sĩ: "Chiều nay ngồi viết riêng cho em, cho em bài hát êm đềm, trôi theo từng tiếng tơ mềm…"
Dùng chung cho trái cây, người miền Nam có "trái" (người miền Bắc nói "quả"): trái chuối, trái xoài, trái mãng cầu (quả na), … Loại hoa trái hay sự vật nào đơm thành chùm, thành nhúm, loại từ cứ vậy mà biến dạng: chùm nho, chùm hoa, chùm chìa khoá, nhúm tóc, chùm lông … Sau này "chùm" còn mon men len vào lãnh vực thi ca: "Chỉ với chùm thơ năm bài, thi sĩ X đã để lại dấu ấn sâu sắc trong thi đàn Việt nam", nghe rất… ấn tượng.
Rộng hơn, tất cả những gì có hình dạng trái cây, đều mang loại từ "trái" hoặc "quả": quả địa cầu, quả bóng, trái tim, … Cũng thi sĩ Hoàng Cầm, trong thi phẩm "Namô Xuân":
"Địa cầu bằng quả táo gầy,
cắn bao giờ chạm ngón tay em cầm …"
Cho riêng trứng gà, trứng vịt, Bắc nói "quả ", Nam không nói "trái" mà dùng từ "hột"; Bắc đa sự: "quả trứng gà", Nam ngắn gọn: "hột gà". "Hột" hay "hạt" (giọng Bắc) còn là loại từ dành cho những mầm cây trái (có thể suy ra, vì lẽ đó mà người miền Nam nói "hột gà", "hột vịt" chăng?): Hạt na, hạt nhãn, hột sầu riêng, hột xoài, … Nhỏ hơn có: hạt tiêu, hạt vừng, hột gạo, v.v… Và, ngay cả những mảnh vụn của tổng thể: hạt sạn, hột cát, hạt mưa … là những thứ không có mầm miếc gì ráo.
Ca dao Việt nam có những câu tỏ tình mặn mà:
"Hột muối mặn, ba năm còn mặn.
Lát gừng cay, sắc chín nước còn cay.
Anh thương em cha mẹ không hay,
như ngọn đèn trước gió, biết xoay hướng nào?"
Hay khi cô con gái ngẩn ngơ buông lời chấp nhận cho duyên phận:
"Thân em như hạt mưa rào,
hạt rơi giữa chợ, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày."
Phần trên có nhắc tới tóc và lông và loại từ "chùm". Dành cho bộ tóc dài của nữ phái, hồn thơ của người Việt ban cho loại từ "dòng", gợi hình một con sông, dòng suối mượt mà, buông thả sau lưng, trên gối. Còn tóc của nam phái? Ngày xưa cha ông ta cũng để tóc dài, khi đi ngủ, xoã ra biết đâu chừng trông cũng não nùng, gợi cảm lắm chứ, nhưng thơ văn kim cổ không thấy ai ca ngợi, rằng "chàng có dòng tóc đen mịn màng…" Không, tuyệt đối không. Mà, tóc đàn ông chỉ là một mớ… lông che đầu không hơn không kém, có được "mái" làm loại từ là phước đức lắm rồi. Thì ra, ngôn ngữ đôi khi cũng biết kỳ thị phái tính. Còn lông? Không nghe ai nói "dòng lông" hay "mái lông" cả, vì lông người không mấy dài và cũng không được mịn màng như tóc. Thôi thì "nhúm", "chùm" vậy! Cùng chung số phận như lông là râu: chòm râu. Trang trọng hơn chút thì nói: bộ râu.
Chẻ tóc, lông và râu ra, tiếng Việt có "cọng" hoặc "sợi":
"Tóc mai sợi vắn sợi dài,
lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm."
Tương tự vậy, chia trận mưa, cơn nắng ra, có: cọng mưa, sợi nắng, là loại từ ngữ thường được quí vị văn thi sĩ sính dùng. Lấn sang ngôn ngữ ẩm thực, các loại thực phẩm chính cho phở, mì, hủ tiếu, cũng như các món bún, đều là tổng hợp của vô số "sợi", "cọng" mà thành. Mà "cọng" cũng còn là loại từ của rau cỏ:
"Giơ tay anh bứt cọng ngò.
Thương em đứt ruột, anh giả đò ngó lơ."
Tới đây, người viết bàn sang những loại từ được dùng cho động vật trong Việt ngữ.
"Người" là một trong nhiều loại từ được dành cho sinh vật người: người đàn ông, người đàn bà, người chủ nhà, người ăn xin, … Dùng chỉ trẻ nhỏ, hoặc ngụ ý khinh miệt, có "đứa": đứa con trai, đứa con gái, … hoặc: đứa ở, đứa đứng đường, đứa cờ bạc, … Hàm ý coi thuờng, tiếng Việt phân biệt rành rẽ: thằng cha, thằng lưu manh, con mẹ, con gánh nước, … Trời, lôi cha mẹ ra mà kêu "thằng" với "con", đích thị con nhà mất dạy, dữ dằn, hỗn ẩu. Hay nặng tính kỳ thị chủng tộc: thằng Tây, thằng Mỹ, thằng chà-và, con Đầm, con xẩm, …
Với riêng loại từ "con", người viết nhận thấy có vài điểm đặc thù: vừa dùng ám chỉ thiếu niên nam nữ, vừa phân định giới tính phụ nữ, và định loại cho số đông thầm lặng: thú vật. Có thể kết luận mà không ngại hớ hênh: "Con" là loại từ đặc quyền của tất cả sinh vật. Phát ngôn theo con nhà bình dân, những gì tự chúng có thể cục cựa, nhúc nhích được, đều là "con", từ "con người" cho tới "con vi khuẩn". Ngay tới cảnh vật, nếu chuyển động được, là "con" tuốt: con sông, con suối. Đối với "con đường", tuy không trực tiếp chuyển động, nhưng theo tôi, vì dòng xe cộ ngược xuôi khiến ta có cảm giác "đường" cũng chuyển động, thôi thì… "con" luôn cho khoẻ!
Ấy, không đơn giản vậy đâu! Bới lông tìm vết, rốt cuộc cũng ló ra vài thứ không thuộc vào số đông thầm lặng nói trên, không biết nhúc nhích, cục cựa gì ráo, mà "cái" giống người Việt ma mãnh kia, có lẽ nhằm hôm ăn không ngồi rồi, gán luôn cho "con": con ốc (đinh vít) và con dao. Cho "con ốc" có thể đôi co lý luận như sau: vì lỡ mang danh nghĩa một loài sinh vật có vỏ cứng, nên thành "con" là phải rồi, oan ức gì nữa? Còn dao? Rắc rối dữ!
May thay, tác giả bài viết này có chút ít khả năng sáng tạo. Xin mời Quí vị và các Bạn theo dõi câu chuyện về nguồn gốc phát sinh loại từ "con" cho dao sau đây, cam đoan hư cấu một trăm phần trăm:
"Xưa kia, xưa lắm… Ngày nọ, thần chữ ra lệnh cho tất cả sinh linh trên địa cầu tới diện kiến để nhận giấy chứng minh loại từ đem về làm ăn. Đúng ngày hẹn, thú, người lũ lượt mang theo đủ mọi đồ vật tới dinh thần chữ. Người và thú đứng một bên. Đồ vật được để riêng một bên. Không khí trong đại sảnh cực kỳ căng thẳng, vì có mặt cả dòng họ nhà dao được bày biện lẫn lộn trong đám đồ vật.
Thần chữ đã từng nghe tiếng con nhà dao bản tính hiếu động, thích gây sự để thoả mãn nhu cầu chặt chém, nên đề nghị với muôn loài và dao rằng:
– Ta ban cho dòng họ nhà ngươi loại từ ‘con’, biết cử động và có bổn phận phục dịch giống người, vậy ngươi hãy qua bên chỗ người và thú mà đứng. Lỡ như các ngươi có nổi máu hung dữ, đòi xin tí huyết, thì chúng nó còn biết đường lẩn tránh.
Bè lũ nhà dao vừa rục rịch, rổn rảng bước qua, thì người và thú hãi quá, giẫm lên nhau tìm cách chạy trốn. Quang cảnh vô cùng hỗn loạn. Thần chữ thấy vậy, lập tức làm phép cho dao trơ trơ bất động trở thành tĩnh vật như cũ. Trong lúc hấp tấp, thần quên rút lại loại từ ‘con’. Lúc nhớ lại, thì dòng họ nhà dao đã qui cố huơng mất rồi!"
Khi đề cập tới những bộ phận trong và ngoài cơ thể con người, thấy lộ ra vài điểm cần lưu ý. Cho dễ giải thích, người viết đính kèm dưới đây một bức vẽ của Leonardo da Vinci, tấm "Vitruvmann", nhằm phát hoạ tỉ lệ cân xứng và đối xứng của con người, ở đây là một người nam:
Thử tưởng tượng có một đường ranh ảo phân đôi nguời đàn ông theo chiều dọc, ta sẽ được hai phần đối xứng gần như hoàn toàn, có thể gấp lại gần khít khao lên nhau. Những bộ phận nào… xui xẻo nằm tiếp cận ngay trên đường ranh ấy, tạo hoá ban cho chỉ có một. Nằm ngoài, chúng đều có đôi, ngoại trừ tim và… cuống ruột dư. Trong bài viết này, người viết có ý luận bàn tới những loại từ của Việt ngữ dành cho chúng. Hơi… bị lạ.
Như đã xét ở trên, những gì có đôi có cặp, khi đứng riêng, tiếng Việt có loại từ "chiếc". Nguyên lý này lại không thể áp dụng cho bất kỳ bộ phận đôi nào, bên ngoài cũng như bên trong cơ thể con người. Không ai nói "chiếc" mà phải nói là "con mắt" mới đúng. Nhưng tại sao là "con"? Thôi thì cứ cho là mắt tự nó có thể nhúc nhích được, chẳng hạn trong trường hợp tự nhiên con mắt mấp máy, mà ta cho là đang được (hoặc bị) ai đó vắng mặt nhắc nhớ (hoặc chửi rủa). Chia riêng đôi tay, ta có "cánh", "bàn" và "ngón tay". Cho bộ nhũ hoa của nữ giới, lại… không là gì cả, vì người phụ nữ nào không may độc nhũ thì khổ, khổ lắm lận, dám chừng ở góa suốt đời. Còn đôi vú kẹp lép của nam giới lại bị người đời quên lãng, vì chúng không giữ nhiệm vụ nào thiết thực cả. Xuống thấp hơn, thấy cặp tinh hoàn, hình dáng tròn tròn giống hòn sỏi, quả trứng thì là "hòn" hoặc "trứng", chớ còn gì nữa. Cho cặp chân, người Việt nói "ống chân", hay rõ ràng hơn: "bắp đùi", "ống quyển", "bàn chân", "ngón chân", v.v…
Săm soi moi móc lục phủ ngũ tạng, loại từ thường gặp là "lá" (đã bàn ở trên). Bộ phận nào có hình dáng như cây trái, lập tức lãnh ngay "trái" hay "quả", chẳng cần cãi cọ, khiếu nại làm gì vô ích: trái thận, trái tim. Ngoài ra, tim tự nó biết phập phồng, còn được ban cho loại từ "con", đúng điệu quá.
Còn cái giống của người nam, người nữ? Dễ hiểu thôi. Của quí ông, nếu gặp đúng đối tượng, đang là "phần mềm" tự động cựa quậy trở thành "phần cứng". Ông thần chữ thấy vậy, không cần suy nghĩ lâu lắc, cho ghi ngay vào sổ sách từ "con", tránh chuyện tranh cãi lôi thôi về sau. Liếc qua cái ấy của quí bà, thấy ù lì, không biết cử động chi hết, kêu lãnh "cái" về, để ghi vào bách khoa tự điển, lưu truyền hậu thế.
Viết về loại từ mà không đả động tới phần ngôn ngữ trừu tượng là một thiếu sót lớn. Ở đây người viết chỉ chú trọng tới loại ngôn ngữ nặng về cảm tính. Có thể phân loại thành hai nhóm: bi và lạc quan. Cho những từ bi quan, người Việt thường nói "nỗi": nỗi buồn, nỗi đau, nỗi ngậm ngùi, nỗi uất ức, … Từ "nỗi" tự nó đọc lên, khơi dậy trong ta thứ cảm xúc ăm ắp những ấn tượng sầu bi, không được đáp ứng; gần như đối chọi với "niềm": niềm vui, niềm hân hoan, niềm tự hào, …
Khi gặp phải những từ khó phân loại, "sự" được đem ra sử dụng tuốt: sự việc, sự điều khiển, sự hiểu biết, sự hậu thuẫn, … Những gì có "sự" gắn vào, trở nên quan trọng hẳn ra: "Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta, chậm mà chắc, sẽ từ từ Xuống Hố Cả Nũ."
Tiếng Việt không thiếu, mà có thể nói là lạm phát, những ngữ vựng trừu tượng loại ấy. Nếu thiếu, là thiếu những từ ngữ học thuật, thí dụ dành cho triết học. Xưa cũng như nay, chủng tộc Việt không có ai có thể được gọi là triết gia, nói chi tới lỗi lạc. Tiếng Việt không phải là thứ tiếng dùng để biện luận như tiếng Trung hoa, tiếng Ấn ở phương đông hay tiếng La-tinh, tiếng Đức, tiếng Pháp ở phương tây.
Trong bài tiểu luận "Đố kỵ cái trừu tượng" [2] của nhà văn Võ Phiến, có đoạn:
"Người có hai phía: phía cảm thụ, phía suy tư; văn có hai thứ: thứ nghệ thuật, thứ luận thuyết. Ta xuất sắc về một phía thứ nhất. Không chừng đó lại là phía hay ho đa. Có được các giác quan mẫn nhuệ, có cảm xúc tinh vi, ta tha hồ hưởng thụ, sống một đời phong phú, đậm đà. Phía thứ nhất mà kém, không thể trông cậy vào ai được; ta không thể mượn chiếc lưỡi tinh tế của kẻ khác để thưởng thức chén trà ngon, tô phở ngon, ta không thể nghe nhạc hay bằng đôi tai sành sõi của kẻ khác, không thể xem tranh ngoạn cảnh bằng mắt kẻ khác, yêu đương rào rạt bằng con tim kẻ khác. Một dân tộc có thiên khiếu về cái cụ thể, một dân tộc sở hữu những giác quan tinh nhạy không phải là được Trời cưng sao?"
Tôi xin được thêm thắt đôi điều: Chữ viết là biểu tượng của tiếng nói, mà tiếng nói, tôi nghĩ, là một sự thoả thuận giữa một số người chia sẻ nhau ít nhiều điểm chung. Chung điểm lớn nhất là có cùng bản sắc, cùng tạng An-nam-mít. Cái tạng ấy, từ nào tới giờ, có hài tính cao, giàu tưởng tượng, nặng "tình" hơn "lý", tranh cãi giỏi hơn biện luận, chuộng cái qua quít hơn tinh tế, thích điều đơn giản hơn phức tạp, xét đoán mông lung hơn tập trung, … Tất cả những ưu và khuyết điểm này được biểu lộ tương đối rõ trong ngôn ngữ Việt nam, điển hình là kho tàng ca dao truyền khẩu vô cùng phong phú, mà từ đó ta có thể nhặt ra cái Việt-tính tiềm tàng bấy lâu nay.
Có điều mà cá nhân tôi cứ hoài nghi, không hiểu từ "đực" trong "đực rựa" có thật sự là loại từ hay không? Thì ra, ngay bản thân tôi cũng còn lắm nỗi băn khoăn, đâu chỉ riêng gì "con" với "cái".
(11.2009)
[1] http://www.vietnhim.com/dongnhim/archive/index.php/t-20794.html
[2] http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=5082
.
Cám ơn tác giả NN Dũng đã đọc và đã sốt dẽo trao đổi lại về các ý linh tinh của tôi.
Phần tôi ‘lí sự’ về loại từ là cho vui thôi vì thật tình tôi không nghĩ các từ con, cái, cây… là loại từ như người ta định nghĩa (chẳng hạn như trong Wikipia) và điều này có thể là do tôi chịu ảnh hưởng từ những bài viết đã đọc ở đâu đó. Tôi thử tìm lại trên mạng thì thấy có 2 bài đáng lưu ý và có ý tưởng ít nhiều gần với điều tôi đã trình bày. Đó là bài Từ loại trong Tiếng Việt của Hồng Huy và bài Sự tích bốn chữ “CHÍNH TRƯỚC PHỤ SAU” trong Việt ngữ hoc của Cao Xuân Hạo. Đặc biệt trong bài thứ hai này, tác giả đã nêu rõ nguồn gốc của khái niệm loại từ, đã phận tích rất kĩ và theo tôi, cũng rất thuyết phục về “loại từ” của tiếng Việt. Tôi cho rằng gọi chúng là danh từ đơn vị (unit noun) với chức năng chủ yếu là làm tác tử danh hoá (nominaliser/normilising operator) như tác giả có vẻ phù hơp hơn là loại từ với chức năng là phân loại các danh từ.
Thêm một chút nói theo với anh.
Trân trọng.
Thưa Anh Huỳnh Phan,
cám ơn Anh đã quan tâm tới bài viết của tôi bằng một bài góp ý với nhiều chi tiết lý thú. Tôi trả lời Anh hơi chậm, vì tôi cần suy nghĩ và sắp xếp ý tưởng, để… góp ý cùng những góp ý của Anh.
1. Anh viết:
«“Từ loại” cái dùng cho các vật bất động nhưng cũng có thể thêm vào phía trước của bất kì “từ loại” nào khác (trừ chính nó) làm sự vật, con vật… nói tới trở thành cố định, cu thể (ít ra trong quy chiếu của người nói và người nghe), cái con gà đang gáy trong sân, cái cây xoài ở ngoài vuờn, cái chiếc xe hơi đỏ…»
Tôi cũng đã nghĩ tới cách nói này của người Việt mình nhưng… quên cho vào bài viết.
Tôi có đề nghị như sau: Để tránh rắc rối, tôi làm giấy khai sinh cho “cái” trong trường hợp này với một cái tên mới là “chỉ định từ”, vắn tắt lại là “định từ”. Và như vậy, chủ từ “cái con gà” trong mệnh đề trên có thể được phân tích như sau:
– “cái” là “định từ” cho “con gà”,
– “con” là “loại từ” cho “gà”,
– “gà” là “danh từ” cho “cái con”.
Khá lôi thôi, nhưng theo tôi, rõ ràng hơn.
2. Anh lại viết:
«Mà cũng hình như các danh từ đi sau con, cái, cây… mới là “loại từ” thì phải. Chẳng hạn, với các từ con gà, cái kéo, … nếu hỏi con gì? cái gì? thì câu trả lời là con gà, cái kéo. Như vậy, gà cho biết loại của con và kéo chỉ loại của cái…»
Theo cách suy nghĩ của Anh, tôi nghĩ, chúng ta sẽ gặp trở ngại khi phân tích vai trò của từng chữ (hoặc nhóm chữ) trong một mệnh đề. Theo tôi, “gà ” không thể là “loại từ” mà là “từ định danh” (chúng ta quen gọi là “danh từ”), trong trường hợp này, cho một “loài gia cầm”, mà người Việt chúng ta đã thoả thuận với nhau.
Bởi vì, theo cách suy luận của tôi: có nhiều tên gọi khác nhau cho “loại từ” con dùng chỉ chung cho loài vật ; không thể có trường hợp ngược lại: có nhiều “loại từ” khác nhau dùng chỉ chung cho toàn thể loài vật mang từ “con” (nếu như vậy, theo Anh, “con” sẽ là cái gì?).
Lôi thôi hơn trường hợp (1) mấy bực.
3. Đúng như Anh hiểu: “đực rựa” được tôi nói tới trong bài viết là “cái rựa”, một loại dao dùng chặt cây, chẻ củi (thời nay ít nghe ai nói). Tôi cũng nghĩ như Anh, từ này có “vấn đề” thật sự đây, nhưng vì không còn thông dụng, thôi cho… thông qua.
Anh Huỳnh Phan ơi, tôi… đuối quá rồi, xin được dừng ở đây vậy.
Trân trọng.
– Thưa Anh Phan Đức,
cám ơn Anh đã chia sẻ cùng tôi vài dòng ngắn gọn. Hình như cho tới giờ này tôi chưa “ghét” ai tới độ “trầm trọng” như thi sĩ Phùng Quán cả, thưa Anh.
Bản tính tôi thẳng thắn, dễ dãi và rất phóng khoáng (hai điểm này đáng lẽ nên để người khác phê phán có lẽ khách quan hơn), nên nhiều lúc gặp khó khăn hoài. “Khổ” lắm Anh Đức ơi!!!
– Thưa Anh actionminded,
tôi xin mạn phép được gọi Anh thay vì Ông cho thân mật hơn, và cám ơn Anh đã trả lời những thắc mắc của tôi.
Về cách phát âm tiếng Việt, bản thân tôi đã nhiều phen… khổ sở vì lỡ vướng nghiệp giáo viên Việt ngữ cho người bản xứ, mà chính tôi vẫn phát âm nhiều từ không đúng vì môi trường sinh sống từ nhỏ. Và tôi đã tìm cách dung hoà theo tiêu chuẩn “viết sao đọc vậy”, để học viên của tôi bớt… khổ phần nào, mặc dù nhiều lúc tôi cũng phải uốn lưỡi nhiều lần trước khi nói trong lớp học.
Tôi nhận thấy không có gì trở ngại nếu như những bài viết của tôi được dùng “như những chuẩn mực, đề tài nghiên cứu cho sinh viên học sinh”, mà vì một vài lý do tế nhị nào đó, cần phải duyệt xén đôi chỗ, miễn sao tôi được thông báo trước, để còn có dịp… tự hào chút chút, thưa Anh!
Trân trọng.
– Bạn Trịnh Trung Lập mến,
nhờ Bạn Lập mà… tình hình bang giao thế giới không đi đến tình trạng căng thẳng! Biết đâu chừng sẽ có ngày Bạn nhận được giải Nobel hoà bình. Lúc đó thì đừng quên tôi (forgetmenot) nghe Lập!
Thân.
Bài viết rất thú vị, tác giả đã chấm phá mấy nét độc đáo về một số “loại từ” trong tiếng Việt.
Cũng xin góp thêm với tác giả vài ý linh tinh.
– Về từ con dao, anh đã lí giải bằng một mẫu chuyện dí dỏm. Tôi có đọc một tác giả khác (Đỗ Quang Vinh trong TIẾNG VIỆT VỚI TRIẾT-LÝ ÂM DƯƠNG VÀ ĐẠO SỐNG THÁI-HÒA) lí giải như sau: ”…Khác với con dao, cái kéo, tuy cũng là vật sử-dụng chuyển-động, song con dao chuyển- động nhiều hơn, người làm bếp có thể lăn lộn, sấp ngửa con dao trên cái thớt bất động, không như cái kéo chỉ đi theo một đường đã vạch. Cho nên không gọi con kéo, con bút là thế…”
– Anh viết ‘Thói thường, “chiếc” là loại từ dùng để chỉ trường hợp riêng lẻ của những sự vật có đôi:chiếc giày, chiếc đũa, chiếc nhẫn (cưới), chiếc bông tai, …; và các phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp, chiếc xe bò, chiếc thuyền, chiếc máy bay, …’ Theo tôi, nhận xét này của anh rất tinh tế.và anh thêm: ‘Nhưng tại sao lại là “chiếc cầu”, “chiếc áo”, “chiếc hình”? Gượng, có thể giải thích, vì cầu, áo là những vật thể có nhiều cơ phận đôi chăng?’ Tôi cũng tán đồng và xin nêu thêm ý này là chúng (kể cả các phương tiện di chuyển) ít nhiếu mang tính đối xứng, có bên này thì cũng có bên kia, tức là trong tự bản thân chúng cũng có tính có đôi, có cặp như trong nhận xét đầu tiên của anh. Như thế dùng chiếc cũng là phù hợp. Hiện nay trong nước, giới trẻ dùng con cho cả một số phương tiện di chuyển như con Dream, con Dylan… (cũng dễ hiểu vì chúng là những thứ có thể di động). Còn trong văn, thơ, nhạc thì người ta đã dùng con thuyền, con đò, con tàu…từ lâu nhưng chưa thấy dùng con xe hơi, con máy bay... (chắc mấy thứ này quá hiện đại không có vẻ thơ mông chăng?)
– “Từ loại” cái dùng cho các vật bất động nhưng cũng có thể thêm vào phía trước của bất kì “từ loại” nào khác (trừ chính nó) làm sự vật, con vật… nói tới trở thành cố định, cu thể (ít ra trong quy chiếu của người nói và người nghe), cái con gà đang gáy trong sân, cái cây xoài ở ngoài vuờn, cái chiếc xe hơi đỏ… (không phải con gà, cây xoài, chiếc xe nào cũng được) nhưng khi dùng cái thằng này, cái con này lại là chuyện khác. Cũng có trường hợp thay con bằng cái như trong bài ca dao “Cái cò, cái vạt, cái nông… “, theo tôi, điều này cũng làm các con vật trở thành cụ thể (không phải cò, vạt, bồ nông chung chung mà là mấy con cò, vạt, bồ nông đang ăn lúa trong ruộng của ông nông dân).
– Trong tiếng Việt có các từ như con ngươi, cái ghẻ, nếu không cẩn thận cũng dễ bị lầm là các từ con, cái trong đó là “loại từ” lắm à ([cái] con ngươi, [con] cái ghẻ).
– Ghép hai ‘loại từ’ cái và con với nhau ta được danh từ (số nhiều) con cái, hình như không thấy có “loại từ” nào khác đi trước danh từ này.
Mà cũng hình như các danh từ đi sau con, cái, cây… mới là “loại từ” thì phải. Chẳng hạn, với các từ con gà, cái kéo, … nếu hỏi con gì? cái gì? thì câu trả lời là con gà, cái kéo. Như vây, gà cho biết loại của con và kéo chỉ loại của cái, giống như trong các từ gà con, gà mái nếu hỏi gà gì? thi câu trả lời là gà con, gà mái (con, mái chỉ loại gà). Nhân tiện cũng xin tạt qua “thắc mắc” cuối cùng của anh về từ đực trong đực rựa. Trong vốn ngôn ngữ hạn chế của mình, tui chỉ biết đực rưa với tư cách một tính từ (ví dụ: đực rựa chính tông chớ gái ghiếc gì nó!). Không biết có phải anh muốn nói đực rưa là cái rựa (thứ dùng để chặt, chém.,bổ… như con dao, cái chét, cái búa… ) không. Nếu đúng, thì theo tôi từ đực ở đây có lẽ cũng không có những đặc điểm chung của các” loại từ” mà anh đã nêu. Chẳng hạn, với các loại từ cái, con, chiếc… ta có thể hỏi: có mấy cái búa, mấy con gà, mấy chiếc xe…? và hoàn toàn có thể trả lới tắt là: 1 cái, 2 con , 3 chiếc … Còn với từ đực, câu hỏi dạng có mấy đực rưa? và câu trả lời tắt là 4 đực (!?) thì tui chưa từng nghe qua và nếu có nghe cũng hơi bị khó thủng. Như vậy từ đực này có vẻ ‘có vấn đề’ đây.
Vài ý ‘ăn theo’ vui với anh và các anh chị ở đây.
Anh Dũng ơi !
Được biết anh có ý “mỉa mai trào phúng” chứ không phải là “ác ý”, Trung Lập rất thoả mãn. Lý do là vì Lập thấy anh viết chữ Đảng thôi, chứ không chỉ rõ đảng nào (trên thế giới có hằng trăm cái đảng mà). Dù anh có viết hoa chữ Đảng đi nữa thì chỉ có anh mới biết là Đảng nào thôi, phải không anh !
Thế nên không ảnh hưởng gì đến “tình hình trong nước và thế giới cả”, hiii…hiii
Vậy khi Lập hỏi anh, là Lập đang “test” lại cái “âm mưu” mà anh định đặt ra cho bài ngữ học này mà thôi ! Qua đó Lập mới yên tâm làm “fan” của tác giả chứ (hii…Anh Dien L. và Anh Phan đức làm tình hình nghiêm trọng quá nên Lập phải ….nói thêm)
Chân thành !
TTL
…………………………………..
Thưa BBT !
Nhân đây, Lập cũng muốn, qua comment này, chân thành cám ơn Ban Biên Tập Damau đã bỏ thời gian “xử lý” Mục Comment bổ ích này. Lập cũng đọc báo mạng đăng trong nước nhiều lắm, nhưng những comment của Lập cho những báo này chưa từng bao giờ được hiển thị. Lập không biết người ta có kiểm duyệt nội dung comment không, hay người ta đã “ghi nhận” rồi, mà Lập thì muốn cho những độc giả khác đọc chứ đâu phải chỉ có BBT báo ! nên nhiều khi rất buồn vì mình có muốn “trào phúng” 1 chút cũng không được !, hiii
Chẳng hạn như qua thái độ “mỉa mai, trào phúng” mà anh Dũng cho biết, Lập thấy đó là thái độ của văn chương (chấp nhận được, theo Lập), còn nếu anh Dũng có ác ý, thì đó là thái độ chính trị xã hội nào đó (nơi ảnh đang sống), thì anh Dũng sẽ chọn 1 thể loại khác (theo Lập đoán phong cách của ảnh là vậy)
Cho nên những dòng trả lời của các tác giả trên Damau đối với Lập là vô cùng quí, vì Lập có thể hiểu rõ hơn ý định của người viết.
Một lần nữa, cám ơn BBT !
Kính !
TTL
Thưa ông Ngô Nguyên Dũng,
Trước hết xin lỗi ông nếu tôi đã quá “bức xúc.” Tôi (nam giới trạc tuổi ông) luôn đánh giá cao và trân trọng các bài viết của ông. Xin được phép trả lời các câu hỏi của ông như sau:
1. Ông nói đúng! Đó là chi tiết “duy nhất trong bài” đã được anh Trịnh Trung Lập nêu ra.
2a. Tôi tôn trọng “sự” khác biệt trong quan điểm chính trị, ngay cả tách bạch về phe phái vì đó quyền tự do của mỗi người trong đó có ông và tôi. “Văn học lý tưởng” và “văn học hàn lâm” nói một cách “phiên phiến ” là văn học trong đó các tiêu chuẩn về văn hóa được tách ra khỏi phạm trù chính trị, ý thức hệ, thể chế, và định kiến.
2b. Một điểm nữa tôi muốn nhắc đến là tính chủ quan của việc phát âm cái mà lâu ngày thành nếp (lờ và nờ, tờ và trờ v.v.). Ông cũng biết rằng rất nhiều từ chúng ta phát âm hiện nay là theo đa số nhưng không thể nói “từ gốc rễ” là ai đúng ai sai được. Do đó đưa việc phát âm ra để chế nhạo e có “lả lơi” quá không cho một bài viết như thế này?
3. Ông nghĩ thế nào nếu các bài viết của ông được dùng như những chuẩn mực, đề tài nghiên cứu cho sinh viên học sinh, nhưng chỉ vì những khúc mắc nho nhỏ không cần thiết mà không được sử dụng, không được ghi trong phần references.
4. Tôi đánh giá rất cao (không phải là quan trọng hóa) bài viết của ông về mặt học thuật. Đó là lý do tại sao tôi đã “bức xúc” phê bình như thế vì tôi rất muốn nhưng không thể dùng nó làm dẫn chứng cho các học sinh, sinh viên, và trong các bài nghiên cứu.
Trân trọng,
– Cùng Anh Trịnh Trung Lập,
cám ơn Anh và tất cả các Bạn sinh viên khoa ngữ văn đã dành cho tôi nhiều cảm tình.
Đúng vậy, bài viết này có phần “lả lơi” hơn mấy bài viết trước, nhưng tôi không có “âm mưu” gì đâu, xin Anh an tâm.
Với câu “Dưới sự lãnh đạo…” được ghi thêm làm thí dụ, tôi có ý mỉa mai trào phúng hơn là ác ý, Anh Lập ạ.
Thân.
– Thưa Anh/Chị actionminded,
1. xin Anh /Chị cho tôi biết rõ hơn những chi tiết nào trong bài viết là “những thiên kiến vụn
vặt mang màu sắc chính trị”? Nếu cùng là chi tiết đã được Anh Trịnh Trung Lập nêu ra, thì tôi đã trả lời ở phần trên.
2. Tôi thật tình không hiểu “văn học lý tưởng” và “văn học hàn lâm” là hai khuynh hướng văn học gì, và chúng dính líu gì tới “chính trị” và “phe phái”? Cá nhân tôi có quan điểm chính trị, nhưng phe phái thì không.
3. Anh/Chị nêu ra những mục tiêu mà tôi hoàn toàn không nghĩ tới khi viết bài tiểu luận này.
Anh/Chị có quan trọng hoá bài viết của tôi lắm không?
Trân trọng.
Theo tôi thì anh NNDũng đúng là 1 người miền Nam,thích nói huỵch toẹt và có phần
giống Phùng Quán trong Lời mẹ dặn :
yêu ai cứ bảo là yêu
ghét ai cứ bảo là ghét …
Tôi ghét cay ghét đắng những kẻ “Miệng nam mô,bụng 1 bồ dao găm” !
Bài viết có giá trị về mặt học thuật hơn nữa nếu không có những thiên kiến vụn vặt mang màu sắc chính trị:
1. Làm loãng chủ đề và mục tiêu
2. Làm mất tính phi chính trị, phi phe phái cần phải có trong văn học lý tưởng, văn học hàn lâm.
3. Làm dị ứng một số độc giả mà chúng ta đang cần cùng họ ngồi lại để làm một cái gì đó mang lợi ích chung về lâu về dài cho nhiều người, nhiều thế hệ, bất chấp các thể chế, ý thức hệ vì chúng chỉ mang tính tạm thời, giai đoạn.
Chúc tác giả có nhiều đóng góp hơn nữa trong việc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.”
Trân trọng,
Anh Dũng ơi,
Sau những màn trình diễn ngoạn mục của Anh về chữ Mình, chữa Ăn trong tiếng Việt, bây giờ Anh lại “âm mưu” lả lướt gì đây với 2 chữ Con và Cái.
Xin thông tin cho Anh biết, mấy sinh viên khoa ngữ văn trong nước bắt đầu yêu mến tặng Anh 1 “thương hiệu” : Anh Dũng _ Từ đệm rồi đó.
Riêng tôi bắt đầu thấy rất thích lối hành văn của Anh ! Nhẹ nhàng nhưng vẫn đầy đủ “điểm nhấn”, tiếu lâm mà vẫn làm suy tư độc giả, bài này có phần hơi “lả lơi” (so với phong cách mô phạm của Anh) nhưng vẫn rất logich.
Chỉ có 2 điều mà tôi thấy đang còn suy tư về bài viết này là :
– Nhiều chỗ anh có “điểm nhấn” ở thân huyệt ác quá làm cho tôi thấy trong người rất xốn xang “khi ………cứng khi mềm”, hiiiii
– Câu anh viết “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta, chậm mà chắc, sẽ từ từ Xuống Hố Cả Nũ.” có vẻ như hơi ác ý. …chăng !
Yours !
TTL